Bỏ qua nội dung Bỏ qua thanh bên Bỏ qua chân trang

ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO HOA SEN

CHÁNH TRÍ

(Trích từ Tạp chí Từ Quang tập 4, 1952)

 

Đạo Phật lấy hoa sen làm tiêu biểu cho cái thanh khiết của mình, đúng với bài ngụ ngôn:

Dưới đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng                 

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Điều ấy chắc ai cũng nhận.

Nhưng trong Kinh, kệ của Đạo Phật, về môn Tịnh độ, thấy có nhiều câu, nhiều bài nói đến hoa sen với một ý nghĩa như cố tình để cho u ẩn, nghĩ nên thử tìm hiểu để giúp phần kiến văn hay giác ngộ không chừng.

Đại khái thấy nói nào “Liên hoa hóa sanh”, nào “Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu”, mà thường nghe giải là:  Hễ ai tu về môn Tịnh độ, chuyên niệm lục tự Di Đà đến chỗ nhứt tâm bất loạn, sau khi lâm chung, sẽ vãng sanh về Cực lạc thế giới, thác thai trong hoa sen, nên nói lấy hoa sen làm cha mẹ. Có chỗ lại thấy nói, mỗi người tu Tịnh độ tinh nghiêm, thì trên Ao “Thất bảo” cõi Cực lạc, sẽ mọc một cây sen, trên đài có ghi tên người đệ tử tín tâm ấy.  Đến khi mạng chung, người này sẽ sanh về nơi đó và ngự trên tòa sen, như nhiều bức tranh Tàu đã vẽ.

Có nên tin bằng lời những chú giải như trên không?

Tôi thâm tín rằng Phật tử chúng ta đã đến lúc cần phải bươi tìm trong những ngụ ý, ngụ ngôn (paraboles) của giáo lý Đức Thích Ca – mà Hoa sen đây là một – cái nghĩa thâm sâu vì đó những ngụ ý, ngụ ngôn kia đã được tạo ra, để khỏi sa vào cái lỗi “y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan…”(Giải kinh bằng cách chữ đâu nghĩa đó là một sự oan uổng cho ba đời Phật).

Thưa quý ngài và chư đạo hữu,

Cái nghĩa thâm sâu, bí ẩn này đã đến với tôi lối đầu năm 1949, trong khi tôi ở Hà Nội, đến một cách bất ngờ vì trong tâm không có một ý tưởng tìm nó.  Nhưng về sau tôi nghiệm thấy rằng không có  gì tình cờ hơn cả:  Trước cái bừng sáng mà tôi đã sống được trong khoảnh khắc lẹ hơn chớp mắt khi nhận ra cái nghĩa của hoa sen, tôi đã suy gẫm nhiều về cái khổ cực, nhọc nhằn của sức cố gắng (les douleurs de l’effort), nhân đọc một quyển sách chữ Pháp.

Nhắc lại câu chuyện xưa, tôi còn thấy cảnh gian phòng bé con, trong ấy tôi đương đứng trước bàn Phật, hai tay chắp lại để trước ngực, kính cẩn niệm bài:

Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,

Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu…

Đầu óc tôi bỗng bừng sáng.  Tôi thấy…  Tôi sung sướng quá…  Sung sướng hơn người khó gặp vàng…  Nhưng chỉ nháy mắt thôi.  Một nháy mắt mà lắm chuyện, nếu đem ra kể có khi trót giờ mà chưa chắc tả được cái linh hoạt, hương vị của cái phút mà tôi cho là “thoát trần” ấy…

Cả thân mình tôi như bị một luồng điện, tôi bèn hạ giọng và định tĩnh thêm, vừa để niệm cho hết bài nguyện, vừa để giữ cái êm dịu, mát mẻ của giọt nước Cam lộ vừa rỏ vào tâm tôi:

Hoa khai kiến Phật ngộ “vô sanh”

Cái bừng sáng trở lại, phừng lên và thấm thía hơn, rồi dịu dần khi tôi đọc câu chót:

Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.

Tôi thấy gì?

Tôi thấy một đầm sen khổng lồ.

Dưới đáy đầm, cách nhiều lớp bùn, vô số ngó sen, có lớn có nhỏ, cái nằm im, cái vừa mọc nanh, hợp thành đại đa số. Trong khi ấy, một thiểu số đã thành cọng, lớp đương gắng công ra sức xoi từ ly đất, lao khổ chẳng nài, gian nguy không nệ, chẳng khác một đạo binh lạc đường, phá rừng xoi núi để tìm sanh lộ.

Nó đương đầu và chiến thắng mọi trở ngại để làm gì?  Tại sao nó không yên phận như đại đa số đồng loại với nó?  Nó còn thiếu gì mà bôn chồn, mà cố vượt cho trầy da, tróc vảy?

Thật nó không thiếu gì:  Muốn ăn có ăn, muốn uống có uống.  Nhưng hình như nó không chịu nổi cái cảnh tù hãm của mấy từng lớp bùn dày mịch, cứ đè ép, giam cầm nó mãi.  Nó muốn hít được một chút thanh khí, nó muốn xung xoe trong cảnh không gian khoáng đạt, nó muốn tắm mình trong cái sáng lạn của ánh thái dương, bao nhiêu những cái mà nó tìm mãi không ra ở đáy bùn lầy.  Vì vậy mà nó cố gắng, vì vậy mà nó quyết tử chiến với những trở lực ngăn rào lấp ngõ nó…


Ngày qua tháng lại, các lớp bùn đất đã xoi, cọng sen đạt đến đáy đầm.  Những ngỡ đã đến cảnh giải thoát, bỏ công len lỏi nhọc nhằn bấy lâu, nào ngờ ngóc đầu lên là gặp nước.  Dơ có, đục có, thúi hôi có, đủ thứ.  Nhưng nhờ đã quá dày dạn với “phong trần” nên da thịt cứng rắn, gai góc cùng mình, bùn đất kia còn không sợ, kể gì mấy từng nước này!  Đã quyết thoát thân thì còn kể gì công phu chống trả với nghịch cảnh!  Thì chiến nữa, thì xoi nữa, nhưng nhứt nguyện không để cho cái ô trược bẩn thỉu nhiễm vào đến ruột gan.

Ngạn ngữ đã bảo:  “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.

Cọng sen biết thế nên được sống cái “ngày nên kim” ở phút ngóc đầu lên khỏi mặt nước, ngửa mặt cười trời, phồng mũi đón thanh khí. Tự do là đây!  Giải thoát là đây?

Chưa.  Sen phóng mắt nhìn lên, thấy khoảng xanh xanh còn hẹp quá.  Vậy cái không gian vô lượng vô biên ở đâu?

Sen vươn mình lên nữa, mặc tình đất, nước trì kéo.

Càng lên, sen càng thích với cảnh gió mát trăng trong, đầu sen càng ngày càng lớn.  Bao nhiêu sanh lực của sen gần như dồn hết lên trên, thích sống với sương đêm hơn phân đất.  Chỉ có chân sen, mình sen là còn dính dấp với cảnh ao tù nước đọng!

Thời gian lại qua, càng qua, đầu sen càng lớn, mới còn búp sau to dần, đến một ngày kia từ từ xòe cánh, như muốn ôm hết vũ trụ vào mình.

Bước đường tiến triển của sen đã đạt thì thân có bị nắng mà khô, cánh có theo mây mà cuốn, sen vui tàn tạ… không trở lại làm sen nữa.

Nhân loại có thể coi như một đầm sen khổng lồ, trong đó mỗi người chúng ta là một ngó sen.

Ở đầm ấy, có cái đa số thích sống trong cảnh lục dục, thất tình đè ép, mất cả tự do, không có ánh sáng chân lý, mà cũng có cái thiểu số nhận rõ số phận đen tối, tù đày của mình, quyết tìm con đường giải thoát. Vận dụng hết sức bình sanh, họ kháng cự với sức xúi giục của xác thịt, chiến đấu từng giây từng phút với sự đòi hỏi, thèm thuồng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, cũng như chống trả với biết bao thành kiến, tập quán, quan niệm của đời lầm lạc, toàn là những lớp đất dày mịch bao giờ cũng ngăn đường lấp nẻo họ.  Lắm khi họ bị đánh quỵ.  Nhưng để trỗi dậy và tiến mạnh hơn.

Một khi đã vượt qua các lớp cấu trần, họ tưởng từ đây họ được thong dong tự tại.  Cay nghiệt thay!  Cũng như sen đầm, sen người thấy mình lầm.  Nước tuy dễ xoi hơn bùn đất, nhưng không phải không chướng ngại:  Sen đầm phải công phu lắm, phải gìn giữ lắm mới khỏi bị nhiễm cái ô trược, hôi thúi của đầm.  Người cũng thế:  Thắng được cái thân là một việc khó, hàng phục được cái vọng tâm là một việc khó hơn, vì những cái niệm tà tư, bất chánh như nước, vừa động tới là lọt qua kẽ tay, không nắm, không bắt, khó thấy, khó nghe được.

Nhờ trì chí, kiên gan, dũng mãnh, một buổi sáng bình minh kia, sen người ngóc đầu khỏi nước, trương đôi mắt nhìn ánh thái dương Chân lý và sống hòa hợp với vạn vật trong vũ trụ.

“Liên hoa hóa sanh” là thế. Trước là “ngó” trong bùn bây giờ là “sen” trước gió…; trước là phàm phu tục tử, sống cho xác thịt, vì xác thịt, nay là hiền nhân, quân tử, sống cho tinh thần, vì tinh thần. Như sen đầm, sen người chỉ còn thân là chung đụng với đất trần, còn đầu thì bao giờ cũng xa cảnh tối tăm ô trược và sống trong cái thanh tịnh khoáng đạt của đạo đức.

Nhưng một khi đã nếm mùi giải thoát, sen người đâu cam đành đứng yên một chỗ.  Phải tiến, tiến nữa, tiến hoài, tiến đến chỗ tột cùng, chỗ cứu cánh. Rồi tùy công phu tu tập lâu năm, dày mỏng không chừng mới có kẻ trước người sau, như trong đầm có sen cao sen thấp, chia làm chín bực (cửu phẩm) nhưng thật ra chỉ có ba là:  Thượng, Trung, Hạ.


Đến mức cuối cùng của con đường tiến hóa, giải thoát, là giai đoạn “hoa nở” (hoa khai).

Mà hễ hoa nở là thấy Phật (hoa khai kiến Phật) tức là tự thấy MÌNH (on se découvre).

Thấy MÌNH không phải là cái Mê muội vào sanh ra tử mà là cái Linh Giác thành tồn bất biến, thấy cái căn bản của mình không phải là phàm phu tục tử, mà là Thánh là Hiền, không phải Ác mà là Thiện, không phải Xú (xấu) mà là Tốt (mỹ), không phải Giả mà là Chơn.  Như kẻ lạc đường đã trở về nguyên quán, người thức tỉnh còn luyến tiếc gì nữa của cảnh “lục đạo luân hồi” buộc trói mà mong trở về nơi đó.  Lúc này là lúc nhận hiểu được cái lý bất sanh bất diệt (ngộ vô sanh).

Ô trược, gông cùm là chúng sanh; trong sạch, cởi mở là Bồ Tát, như nước với dầu, bao giờ lẫn lộn được.  Bởi thế Bồ Tát chỉ làm bạn với Bồ Tát và đời đời, kiếp kiếp chẳng hề rời nhau (Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ).

Hoa sen tuy chửa nảy sanh,

Bản căn đã kết ngó sanh trong bùn…

Không ngó làm gì có cây sen, không cây sen làm gì có hoa sen nhụy vàng.

Không được làm người, làm tiểu nhơn trước, sau làm gì thành quân tử được; không quân tử làm sao đạt đến bực Thánh nhơn.

Được làm người là được làm “ngó sanh trong bùn”.

Cứ cố gắng tự ngộ, tự giác, thì chẳng chầy cũng kíp, ngó kia sẽ thành sen, rồi sen sẽ kết hoa.

Nên sợ không được làm người, nên sợ mất thân người (khủng thất nhơn thân):  Ngó chẳng có làm sao có sen…

 

Cảm nghĩ của bạn?
0Tuyệt vời0Tệ0Vui vẻ0Buồn
Chùa Phật học Xá Lợi

Chịu trách nhiệm xuất bản: Hòa Thượng Thích Đồng Bổn

Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. HCM

Thời gian mở cửa

Thứ Hai - Chủ nhật
Sáng: 8:00 - 11:00
Chiều: 14:00 - 19:00

Theo dõi chúng tôi