VUA THUẬN TRỊ LÀM THƠ CA NGỢI HẠNH XUẤT GIA
Nguyên tác: Thuận Trị Hoàng đế, đời Thanh, Trung Hoa
Dịch thơ: TRẦN QUÊ HƯƠNG
Trên đời như núi, cơm chùa
Vân du trẩy hội gặp mùa… thong dong
Gẫm suy vang ngọc như không
Cà sa áo Phật sắc hồng khó mang
Trẫm là chủ cả giang san
Vì dân vì nước lo toan đêm ngày
Thế mà người chẳng chịu hay
Đem phiền muộn đổi, khổ thay nỗi đời
Trăm năm thế sự đầy vơi
Sáu ngàn ba vạn nhựt thời phù du
Làm sao sánh được nhà sư
Nửa ngày nhàn tịnh, ẩn cư nhiệm mầu
Đến đi mờ mịt nông sâu
Một đời sanh tử khổ sầu lầm than
Chưa sanh luống những bàng hoàng
Sanh rồi cũng lắm ngỡ ngàng tự thân
Trưởng thành mãi cứ phân vân
Thân này có phải thật thân chăng là?
(Hay là chỉ kiếp phù hoa
Mượn vay, vay trả… hằng sa bụi hồng)
Chẳng đi chẳng đến chẳng không
Đến lòng rộn rã, đi trông não nùng!
Buồn vui, ly hợp lao lung
Sao bằng nhứt nhựt thư trung thanh nhàn?
Ai người liễu đạt Tăng nhân
Tức thì thức tỉnh tinh cần thiện tâm
Xuất gia vượt thế gian phàm
Không sầu không muộn thoát đàng bi thương
Miệng thường thấm vị thanh lương
Thân thường bá nạp, bốn phương du hành
Năm châu bốn biển thượng nhân
Hạt Bồ đề… sớm nảy mầm từ xưa
Chơn La hán, đẹp nhân thừa
Tam y nhứt bát hương đưa ngút trời
Đông tây nhựt nguyệt sáng ngời
Tâm cơ chớ dụng, làm người chớ thâm
Trăm năm nửa giấc mộng vàng
Đường đời muôn dặm mơ màng cuộc chơi
Nhớ xưa Thương – Vũ… rã rời
Tần thâu sáu nước, Hán thời xây ngôi
Anh hùng nào mãi reo vui…
Non Nam núi Bắc nằm phơi bùn lầy!
Cát hồng khó đuổi trời mây
Hoàng bào khó đổi áo thầy cà sa
Đúng sai – một niệm chánh tà
Ta xưa Hòa thượng ngự nhà Tây phương
Vì sao nay hiện Đế vương?
Nam chinh Bắc chiến máu xương… phong trần!
(Ngai vàng, điện ngọc, giai nhân…)
Mười tám năm… chẳng an thân chút nào
Bây giờ Trẫm quyết quay đầu
Quê xưa Cực Lạc vui hầu Phật thôi
Dù cho ngàn, vạn, muôn đời…
順治皇帝出家自嘆詩
天下叢林飯似山
缽盂到處任君餐
黃金白玉非為貴
唯有袈裟披肩難
朕本大地山河主
憂國憂民事轉煩
百年三萬六千日
不及僧家半日閒
來時糊塗去時迷
空在人間走這回
未曾生成誰是我
生我之時我是誰
長大成人方是我
合眼朦朧又是誰
不如不來又不去
來時歡喜去時悲
悲歡離合多勞濾
何日清閒誰得知
若能了達僧家事
從此回頭不算遲
世間難比出家人
無憂無慮得安宜
口中吃得清和味
身上常穿百衲衣
五湖四海為上客
皆因夙世種菩堤
個個都是真羅漢
披搭如來三等衣
金烏玉兔東復西
為人切莫用心機
百年世事三更夢
萬里乾坤一局棋
禹開九州湯放桀
秦吞六國漢登基
古來多少英雄漢
南北山頭臥土泥
黃袍換的紫袈裟
只為當年一念差
我本西方一衲子
為何生在帝王家
十八年來不自由
南征北討幾時休
我今撒手西方去
不管千秋與萬秋
THUẬN TRỊ HOÀNG ĐẾ XUẤT GIA TỰ THÁN THI
Thiên hạ tòng lâm phạn tợ sơn
Bát vu đáo xứ nhậm quân xan
Huỳnh kim bạch ngọc phi vi quý
Duy hữu ca sa phỉ tối nan
Trẫm vi đại địa sơn hà chủ
Ưu quốc ưu dân tự chuyển phiền
Bá niên tam vạn lục thiên nhựt
Bất cập Tăng già bán nhựt nhàn
Lai thời hồ đồ khứ thời mê
Không tại nhơn gian tẩu nhứt hồi
Vị tằng sanh ngã thùy thị ngā
Sanh ngã chi hậu ngã thị thùy
Trưởng đại thành nhơn phương thị ngã
Hợp nhãn mông lung hựu thị thùy
Bất như bất lai diệc bất khứ
Lai thời hoan hỉ khứ thời bi
Bi hoan ly hợp đa lao lự
Hà nhựt thanh nhàn thùy đắc tri
Nhược năng liễu đạt Tăng già sự
Tùng thử hồi đầu bất toán trì
Thế gian nan tỉ xuất gia nhơn
Vô ưu vô lự đắc an nghi
Khẩu trung khiết đích thanh hòa vị
Thân thượng thường xuyên bá nạp y
Ngũ hồ tứ hải vi thượng khách
Giai nhơn lụy thế chủng Bồ đề
Cá cá đô thị chơn La hán
Giả phỉ Như Lai tam xích y
Kim ô ngọc thố đông phục tây
Vi nhơn thiết mạc dụng tâm (ky) cơ
Bá niên thế sự tam canh mộng
Vạn lý càn khôn nhứt cục kỳ
Võ sơ cửu hà Thang phóng kiệt
Tần thôn lục quốc Hán đăng cơ
Cổ lai đa thiểu anh hùng Hán
Nam bắc sơn đầu ngọa thổ nê
Huỳnh bào vãn đắc tử ca sa
Chỉ vị đương niên nhứt niệm ta
Ngã bổn Tây phương nhứt nạp tử
Vi hà lạc tại Đế vương gia
Thập bát niên lai bất tự do
Nam chinh bắc thảo kỷ thời hưu
Ngã kim tán thủ Tây phương khứ
Bất quản thiên thu dữ vạn thu.
***
Sơ lược về Hoàng đế Thuận Trị (Nguồn wikipedia):
Thanh Thế Tổ (15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy Phúc Lâm, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng đế nhà Thanh đầu tiên cai trị Trung Quốc bản thổ sau khi Đại Thanh nhập quan, từ năm 1644 đến năm 1661. Ông có niên hiệu là Thuận Trị, nên thường được gọi là Thuận Trị Đế. Sau khi Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực băng hà, Hội đồng Nghị chính Vương đại thần đã đề cử ông lên ngôi đại thống kế vị vào tháng 9 năm 1643, lúc đó ông mới có 6 tuổi, và cử ra trong tông thất hai người đồng Nhiếp chính: Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn cùng Trịnh Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng. Sau khi Đa Nhĩ Cổn qua đời vào cuối năm 1650, Hoàng đế đích thân chấp chính. Ông làm việc nỗ lực và gặt hái được thành công bước đầu trong việc chống nạn tham nhũng và hạn chế quyền lực của giới quý tộc. Thuận Trị Hoàng đế băng hà năm 24 tuổi vì bệnh đậu mùa, một bệnh truyền nhiễm không có thuốc chữa vào thời đó.