Tin ảnh: TRÍ BÁ – TRÍ TÂM
RA MẮT QUYỂN “CƯ SĨ CHÁNH TRÍ MAI THỌ TRUYỀN VỚI HỘI PHẬT HỌC NAM VIỆT”
Ngày 7-4-2020 (15-3 Canh Tý), chư Tăng nội tự đã tổ chức lễ giỗ lần thứ 47 Cụ Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, thành viên sáng lập Hội Phật học Nam Việt, và là Hội trưởng Hội Phật Học Nam Việt. Nhân dịp này, Chùa Phật học Xá Lợi đã ra mắt quyển “Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật Học Nam Việt” do Thượng tọa Thích Đồng Bổn chủ biên.
Quyển sách này được chọn lọc, biên tập lại từ những tham luận tham gia Hội thảo Khoa học “Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt” được tổ chức ngày 20-4-2019 (16-3 năm Kỷ Hợi).
LỄ KHÁNH ĐẢN ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
Sáng 7-5-2019 (15-4 năm Canh Tý), Ban Quản trị Chùa Phật học Xá Lợi đã tổ chức Lễ Khánh đản Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2564. Thượng tọa Thích Đồng Bổn, Trụ trì Chùa Phật học Xá Lợi làm chủ lễ.
Mùa Phật đản Phật lịch 2564 diễn ra trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ở hầu khắp các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì thế GHPGVN chủ trương tổ chức Đại lễ Phật đản 2020 an lạc, gọn nhẹ, không tổ chức lễ đài tập trung, không tổ chức rước xe hoa, không tổ chức các chương trình nghệ thuật chào mừng và đề cao tinh thần đồng thuận dân tộc, đồng thuận xã hội.
Sau nghi lễ niệm Phật cầu gia hộ, chư Tăng cùng Phật tử tụng Sám khánh đản Đức Phật và cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.
Trước đó vào ngày 30-4-2020 (8-4 năm Canh Tý), chư Tăng nội tự đã thực hiện nghi thức Lễ tắm Phật truyền thống.
Nghi lễ niệm Phật cầu gia hộ
Thượng tọa Thích Đồng Bổn, Trụ trì chùa Phật học Xá Lợi làm chủ lễ
Chư Tăng và Phật tử tụng Sám khánh đản Đức Phật
BUỔI TRAO ĐỔI PHẬT PHÁP THÚ VỊ
Sáng 6/6/2020 (nhằm ngày Rằm tháng 4 nhuận năm Canh Tý), tại Chùa Phật học Xá Lợi, Ban Phật học đã tổ chức buổi trao đổi Phật pháp thay vì có một buổi nói chuyện chuyên đề như thường lệ. Mỗi thành viên đặt một vấn đề để cùng nhau trao đổi, cuối cùng cư sĩ Trần Đình Sơn, Trưởng Ban Phật học chùa Phật học Xá Lợi tổng kết và trao đổi lại.
Các thành viên đã nêu những vấn đề như mê tín và chánh tín trong Phật giáo; học Phật pháp để đạt được điều gì trong cuộc sống; làm sao để học Phật tốt hơn; sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân; Phật giáo có Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm không;…
BS Đỗ Hồng Ngọc, Cố vấn Ban Phật học, tâm đắc về cách học này, BS Ngọc cho rằng không nên học hết bộ kinh này đến bộ kinh khác mà thiếu ứng dụng Phật pháp vào đời sống. BS Ngọc cho rằng những ý kiến, thậm chí những bức xúc của các thành viên nêu lên rất sâu sắc và cần thiết để cùng nhau trao đổi.
Đối với vấn đề mê tín, không nên chê bai mà nên nương theo để hướng dẫn người mê tín hướng dần đến chánh tín. Tu theo Pháp nào cũng được mà hướng cho những người mê tín đi dần đến Bát chánh đạo là tốt nhất.
Cư sĩ Trần Đình Sơn tổng kết buổi trao đổi:
– Trong Phật giáo có những cái siêu việt, chúng ta khó cắt nghĩa, chúng ta học Phật để biết những điều Phật dạy và ứng dụng vào đời sống. Chứ đợi chờ xem như thế nào thì chúng ta sẽ không có dịp để thực hành. Là người Phật tử nhất thiết phải quy y và giữ được ít nhất 1 trong 5 giới.
Còn thờ cúng qua các biểu tượng bồ tát, chư Phật là hạnh nguyện của người học Phật, nhìn tượng phát thiện tâm không có gì mê tín. Trong cuộc sống hoặc quẫn bách thì cầu nguyện, đó là phản ứng tự nhiên của con người. Đừng thấy người lạy Phật rồi cho là mê tín. Rồi lại cho rằng mình không lạy Phật mới đúng, vì tâm là Phật. Điều đó quý nhưng trước hết tâm mình phải là Phật. Khi tâm mình chưa là tâm Phật dễ phát sinh những suy nghĩ không đúng thì có một tượng Phật để mình chiêm bái và sửa đổi mình theo hạnh của các chư Phật là điều rất tốt.
– Còn về sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân, chúng ta phải biết kính ngưỡng hạnh Bồ tát của Ngài. Luật tỳ kheo cấm tự tử, vì đó là trốn nghiệp. Khi Đại thừa có giới Bồ tát, khi thọ giới Tỳ kheo phải thọ Bồ tát giới. Nếu vì chúng sanh, đạo pháp mà chết thì đó là hạnh Bồ tát. Cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức làm rúng động thế giới. Không có biến cố đó thì khó có thể giữ vững đạo pháp trong mùa Pháp nạn.
– Trong Kinh điển Nam truyền không có nói về Phật A Di Đà, Phật Quan Âm Bồ tát. 500 năm sau đức Phật nhập Niết bàn, Bắc truyền có những phái đưa ra các hình tượng các vị Bồ tát như Phật A Di Đà, Phật Quan Âm Bồ tát và các vị Bồ tát khác. Đúng là trong Phật giáo Nguyên thủy không có các vị Bồ-tát. Tuy nhiên, khái niệm Bồ-tát thì có, được xuất hiện trong các kinh điển Nguyên thủy, nhiều nhất là ở Tiểu bộ và Tạp A-hàm, để chỉ những tiền thân của Đức Phật, những kiếp tái sinh trên con đường tu hành trước khi đạt đến quả vị Phật. Phật giáo Đại thừa sau này đã kế thừa và phát triển khái niệm này, làm cho Bồ-tát trở thành một hình tượng hoành tráng vừa gần gũi, vừa phi thường trên hành trình cứu độ chúng sinh và hy cầu Phật quả. Kinh điển Đại thừa, trên phương diện lịch sử dù không phải Phật nói, nhưng không vì thế mà không có giá trị siêu việt, không chứa đựng tuệ giác và chất liệu giải thoát. Biết bao nhiêu người đã chứng ngộ khi đọc kinh điển Đại thừa.
CHIA SẺ KIẾN THỨC PHẬT PHÁP VỚI TRƯỜNG HẠ CHÙA PHẬT HỌC XÁ LỢI
Từ ngày 10/6 đến 14/8, mỗi tuần 2 buổi, Cư sĩ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Cố vấn Ban Phật học; Cư sĩ Trần Đình Sơn, Trưởng Ban Phật học; Cư sĩ Minh Ngọc, Phó Trưởng Ban Phật học có những buổi chia sẻ kiến thức Phật pháp với trường hạ chùa Phật học Xá Lợi.
BS Đỗ Hồng Ngọc nói về Phật giáo và sức khỏe như: 1) Khái niệm về sức khỏe/ Mối quan hệ giữa Thân và Tâm; 2) Các yếu tố ảnh hưởng sức khỏe, Nghiệp và duyên; 3) Thiền và Thở, dưới góc độ khoa học; 4) Dinh dưỡng: Ăn và Chay; 5) Truyền thông trị liệu; 6) Tham vấn sức khoẻ và các hạnh Bồ tát.
Cư sĩ Trần Đình Sơn giới thiệu về Lịch sử Phật giáo các nước châu Á.
Cư sĩ Minh Ngọc giới thiệu về bộ luận “Qui Sơn Cảnh Sách”. “Qui Sơn Cảnh Sách” là bộ luận mà trong thiền môn nói riêng, giới xuất gia nói chung, coi như kinh của Phật. Thế nên ai xuất gia vào chùa, trong thời gian đầu học làm Sa Di, đều phải học thuộc lòng ba quyển gọi là Phật Tổ Tam Kinh; Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo, Qui Sơn Cảnh Sách.
Từ trái qua: Cư sĩ Minh Ngọc, TT.Thích Đồng Bổn, BS Đỗ Hồng Ngọc, Cư sĩ Trần Đình Sơn.
Ảnh: TT.Thích Đồng Bổn giới thiệu chương trình chia sẻ kiến thức Phật pháp
Chư tăng trẻ đang an cư kiết hạ tại chùa Phật học Xá Lợi
NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ: “LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC”
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn
Sáng 04/7/2020 (nhằm ngày 14/5 Canh Tý), tại chùa Phật học Xá Lợi, Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, Trưởng Ban Phật học Chùa Phật học Xá Lợi, đã có buổi nói chuyện về đề tài “Lịch sử Phật giáo Trung Quốc”.
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, năm T.L.65, vua Minh Đế nhà Hán nằm mơ thấy một người thân bằng vàng ròng, thân hình tỏa sáng rực rỡ và bay khắp cung điện. Sáng ra, hỏi khắp quần thần, đấy là vị thần tiên nào? Có vị quan Thông nhân tên Phó Nghị tâu: “Thần nghe, bên nước Thiên Trúc có một người tu hành đắc đạo, gọi là Phật. Vị ấy có thể bay trong hư không, toàn thân tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Có lẽ ấy là vị thần trong mơ”…
Nghe thế, Minh Đế chợt tỉnh ngộ, rồi sai người sang tận Tây Trúc mang tượng Thích Ca Mâu Ni và kinh sách về. Ông cho dựng chùa Bạch Mã ở kinh đô để đặt tượng, kinh và thờ Phật và mời hai vị cao tăng từ Tây Trúc là Ca-Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan (Falan) qua Trung-Hoa để hành lễ. Chùa Bạch Mã là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc. Hai Ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và mười sáu quyển kinh khác. Phật giáo được triều đình thừa nhận ở Trung Quốc, được xây chùa, dịch kinh là bắt đầu từ đó. Dần dần đạo Phật càng bành trướng và các nhà truyền đạo từ Tây-Vức kéo sang Trung Quốc.
Từ thời Minh Đế đến nay, Phật giáo Trung Quốc đã trải qua những bước thăng trầm. Về sự hưng thịnh, chúng ta có thể ghi nhận bốn thời kỳ chính:
Thời kỳ thứ nhứt – Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV T.L); Thời kỳ thứ hai – Dưới thời Nam Bắc triều (thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VI); Thời kỳ thứ ba – Dưới đời nhà Đường (thế kỷ thứ VII- IX); Thời kỳ thứ tư – Dưới đời nhà Minh.
Đồng thời Phật giáo Trung Quốc cũng trải qua 4 thời kỳ đen tối: Thời kỳ thứ nhứt – Dưới đời hậu Ngụy Thái-Võ-Ðế (439-450 T.L); Thời kỳ thứ hai – Dưới đời Bắc Chu Võ-Ðế (574 T.L); Thời kỳ thứ ba – Dưới đời Võ-Tôn nhà Ðường (840-847 T.L); Thời kỳ thứ tư – Dưới thời Thế Tôn nhà hậu Chu (khoảng giữa thế kỷ thứ X).
Phải đợi đến đời vua Thái-Tổ nhà Minh (Chu Nguyên Chương) đạo Phật mới lấy lại được cái vẻ huy hoàng của những thời hưng thịnh trước. Minh Thái-Tổ, nguyên lúc nhỏ là một vị Sa-Di, nên khi lên ngôi, Ngài hết sức ủng hộ Phật giáo.
Từ khi nhà Minh mất ngôi, sang nhà Thanh, mặc dù các vua chúa cũng có ủng hộ Phật giáo, nhưng trong dân gian ít người hiểu thấu đạo lý của Phật, mà chỉ nghĩ đến cúng cấp, mê tín, dị đoan thôi.
Phải đợi đến cuộc cách-mạng Tam-Dân chủ-nghĩa (1912), đạo Phật mới trỗi dậy bằng hình thức nghiên cứu Phật học và sự thành lập các hội Phật giáo khắp trong nước.
Sau khi Mao Trạch Đông thống nhất lãnh thổ Trung Quốc (1949), Tưởng Giới Thạch phải chạy sang Đài Loan, Phật giáo ở Trung Quốc lục địa đối diện với tình hình mới, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đều bị hạn chế. Đến năm 1979, lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đã thực hiện một chính sách cải tổ kinh tế và hiện đại hoá, mở cửa với thế giới. Trong thời kỳ cải cách thị trường đó, Phật giáo mới có sự hồi sinh rõ rệt.