SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA KINH KIM QUANG MINH
TRONG VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
DIỆU HỶ
1. Tổng quan
Kinh Kim Quang Minh tuy không được quần chúng biết đến rộng rãi như kinh Hoa Nghiêm hay kinh Pháp Hoa, nhưng cũng xếp vào hàng “vua của các kinh”, được lưu hành và đóng vai trò quan trọng tại Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, Nepal…
Lương Võ Đế (464 -549)
Không những vậy, kinh này được nhiều vị đế vương nổi tiếng Trung Hoa yêu thích, như Lương Võ Đế (464-549), Tùy Văn Đế (541-604)… Võ Tắc Thiên (624-705) cũng viết lời tựa cho cuốn Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh do Pháp sư Nghĩa Tịnh (635-713) dịch. Thánh Đức Thái tử (574-622) của Nhật Bản được xem là rất tôn sùng bộ kinh này.
Tại Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu giữ một bản Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, ký hiệu AC.457, tổng cộng 820 trang (410 tờ) có bài tựa ngự chế viết năm Chính Hòa thứ 12 (1691) đời vua Lê Hy Tông (1663-1716), sách cũng ghi rõ in tháng 2 năm Thành Thái thứ 3 (1911) tại chùa Liên Phái, bản lưu tại chùa Trấn Quốc. Vua Lê Hy Tông của Đại Việt tuy không trực tiếp điều hành đất nước, nhưng thời kỳ của ông được đánh giá là phát triển, nên còn được gọi là “Chính Hòa chi trị”. Điều này, cũng rất thuận lẽ vì kinh Kim Quang Minh ngoài ý nghĩa đề cao bảo hộ quốc gia còn có phẩm “Vương pháp chính luận” dạy bảo về việc dùng chính pháp để trị quốc. “Kinh này nói khá nhiều về quốc vương. Căn bản của quốc vương là phục vụ quốc dân và quốc gia bằng sự áp dụng chính pháp cho bản thân, thân quyến và quốc dân”.
Vua Lê Hy Tông
Theo dòng lịch sử, kinh Kim Quang Minh có các truyền bản như sau:
• Kinh Kim Quang Minh do Ngài Đàm Vô Sấm (385-433) dịch vào thời Bắc Lương, gồm 4 quyển, 19 phẩm kể cả phẩm tựa, niên hiệu Huyền Thủy (412-428).
• Kinh Kim Quang Minh Đế Vương phiên âm theo Phạn ngữ là Tu bạt noa bà phả bà uất đa ma nhân đà la già duyệt na tu đa la (Suvarṇaprabhāottamendrarājāsutra). Bản kinh này do Ngài Chân Đế (513-569) dịch vào niên hiệu Thái Thanh nguyên niên (547) gồm 7 quyển. Tuy nhiên, theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, quyển 6 và Lịch đại Tam Bảo Ký, quyển 7 thì bản kinh này, Ngài Chân Đế dịch vào niên hiệu Thừa Thánh nguyên niên, tức năm 552.
• Kinh Kim Quang Minh Tiện Quảng Thọ Lượng Đại Biện Đà La Ni, do Ngài Da Xá Quật Đa cùng với Ngài Xà Na Quật Da dịch ở thời Bắc Chu (557-581) gồm 5 quyển. Theo Ngài Trí Thăng trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục, quyển 7, cho rằng bản kinh này vốn kế thừa bản dịch của Ngài Đàm Vô Sấm, chỉ thêm 2 phẩm “Thọ lượng” và “Đại biện”.
• Hiệp bộ kinh Kim Quang Minh, bản kinh này do Ngài Bảo Quý tổng hợp lại từ 3 bản dịch kinh Kim Quang Minh, do Ngài Đàm Vô Sấm, Chân Đế và Xà Na Quật Da vào niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 17 (597).
• Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, do Ngài Nghĩa Tịnh (dịch vào niên hiệu Trường An năm thứ ba 703), gồm 31 phẩm chia đều thành 10 quyển, được Võ Tắc Thiên viết tựa.
Đời Tùy (589-618), Ngài Trí Khải (538-597) tạo bộ Kim Quang Minh Huyền Nghĩa (1 quyển) và Kim Quang Minh Văn Cú (6 quyển), cũng đời Tùy, Ngài Cát Tạng (tức Gia Tường là sơ tổ hoằng truyền Pháp Tính tông ở Trung Hoa) tạo bộ Kim Quang Minh Sớ (1 quyển). Đời Tống (960-1279), Ngài Tri Lễ (960-1028) tạo bộ Kim Quang Minh Huyền Nghĩa Thập Di Ký (6 quyển) và Kim Quang Minh Văn Cú Ký (12 quyển). Ngoài ra, chưa kể các nước khác và rất nhiều nhà giảng giải hoằng truyền. Tại Việt Nam có bản do Khối Đường Trần Cai, người Gia Lâm viết chữ cũng chính là bản có ngự chế vua Lê Hy Tông đã đề cập ở trên. Ngoài ra, còn có học giả Lê Qúy Đôn (1726-1784) viết tựa tân san.
Một số bản dịch của kinh này ra chữ quốc ngữ nổi tiếng khác phải kể đến:
• Kinh Kim Quang Minh, Hòa thượng Thích Thiện Trì, dịch xong vào năm 1969, gồm 19 phẩm chính là bản của Ngài Đàm Vô Sấm.
• Kinh Kim Quang Minh Hiệp Bộ, Ni trưởng Như Ấn, dịch xong vào năm 1974. Bản này dịch từ bản niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy của Ngài Bảo Qúy.
• Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim (Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh), Hòa thượng Thích Trí Quang (1923-2019), dịch xong vào năm 1995, gồm 31 phẩm là bản dịch từ bản của Ngài Nghĩa Tịnh.
• Kinh Kim Quang Minh – nghi thức tụng niệm, biên dịch và chú giải Tỷ khiêu Thích Nguyên Chơn, dịch năm 2009. Bản này dịch từ bản của Ngài Nghĩa Tịnh.
• Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, cư sĩ Huyền Thanh (Nguyễn Tài Vũ, 1958-2017), dịch năm 2014 từ bản dịch của Ngài Nghĩa Tịnh.
2. Tín ngưỡng xá lợi và kiến trúc chùa tháp
Chùa Huệ Trạch, Bắc Ninh
Trở lại vấn đề chính là ảnh hưởng của kinh trong văn hóa Phật giáo nước ta, vào tháng 8 năm 2012, tại chùa Huệ Trạch, làng Xuân Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, phát hiện một bia năm Tân Dậu, niên hiệu Nhân Thọ nguyên niên thời nhà Tùy (601). Bia có tên là “Xá lợi tháp minh”, nội dung nói về việc ngày 15/10 âm lịch năm 601, Hoàng đế Đại Tùy kính cẩn sai đặt xá lợi và dựng tháp tại chùa Thiền Chúng, huyện Long Biên, Giao Châu, để phổ độ chúng sinh muôn cõi. Bia này được công nhận là Bảo vật quốc gia đợt 2 năm 2013 và là tấm bia đá cổ chữ Hán có niên đại cổ nhất được tìm thấy tại Việt Nam. Theo sử sách Trung Hoa, thì vua Tùy Văn Đế cho xây tổng cộng 111 bảo tháp tôn trí xá lợi trên toàn lãnh thổ quốc gia từ năm 601 đến năm 604. Câu chuyện về bảo tháp Xá Lợi tại chùa Thiền Chúng (chùa Dâu, chùa Pháp Vân) cũng được ghi chép vào Đại Việt Sử Ký thời nhà Lý “Năm ấy, sư Hưu ở chùa Pháp Vân, châu Cổ Pháp tâu rằng, trong chùa ấy phát ra mấy luồng ánh sáng, theo chỗ ánh sáng đào xuống được một cái hòm bằng đá, bên trong có cái hòm bằng bạc, trong hòm bạc lại có hòm bằng vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình đựng xá lỵ. Vua sai rước vào cấm điện, xem xong lại trả lại”. Như vậy, qua hiện vật khảo cổ và sử sách cho thấy quả thực đã tồn tại một bảo tháp xá lợi từ những năm đầu tiên của thế kỷ thứ VII tại Việt Nam do hoàng đế Nhân Thọ hay chính là Tùy Văn Đế Dương Kiên (541-604) cho xây dựng. Kinh Kim Quang Minh là bộ kinh nổi tiếng tán thán sự phụng thờ xá lợi điển hình như các phẩm “Thọ lượng Thế Tôn”, “Xả thân” (Xả bỏ thân mạng, sau đó xá lợi của Bồ tát được xây tháp báu để thờ cúng). Kinh Kim Quang Minh, nói: “Xá lợi này là kết tinh của sự huân tu giới, định, tuệ, rất khó có được, là phước điền tối thượng”. Một điểm khác dễ nhận thấy đó là thời Tùy cũng là thời đại mà kinh Kim Quang Minh được dịch và sớ giải rất nhiều với các Ngài Bảo Quý, Trí Khải, Cát Tạng như đã trình bày ở phần trước. Như vậy, với sự đề cao tín ngưỡng xá lợi và sự phổ biến của bộ kinh này đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng các bảo tháp xá lợi trên toàn lãnh thổ nhà Tùy khi đó trong đó có miền Bắc Việt Nam hiện nay. Việc này, ảnh hưởng lớn đến kiến trúc chùa chiền khi đó, điển hình nhất là chùa Dâu ở vùng Luy Lâu, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi chùa này có lịch sử lâu đời bậc nhất tại Việt Nam, đến nay vẫn sừng sững một đại bảo tháp cổ kính ở giữa sân chùa trở thành điểm nhấn riêng biệt đặc trưng, dân gian, vì thế có câu ca dao rằng “Dù ai buôn đấu bán đâu, Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về”. Bố cục kiến trúc lấy tháp trung tâm, đó là sự tiếp nối của các bảo tháp xá lợi từ xưa như sử sách nhà Tùy.
Truyền thống xây nhiều bảo tháp để cầu phúc cho quốc gia, hoàng gia hay cá nhân nhà vua còn kéo dài về sau, điển hình nhất là triều đại nhà Lý (1009-1225), theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi chép về thời vua Nhân Tông (1072-1128) cho làm 2 ngọn tháp trắng ở chùa Diên Hựu và 3 ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn, hay thời vua Thần Tông (1128-1138) cho mở hội khánh thành 8 vạn 4 nghìn bảo tháp ở gác Thiên Trù.
Với câu chuyện tiền thân Phật là Hoàng tử Ma Ha Tát Đỏa lấy thân nuôi mẹ con hổ đang bị đói trong phẩm “Xả thân”, đây là chuyện rất ấn tượng và dễ đi vào lòng người này đã trở thành hình ảnh đặc biệt được lưu truyền trong văn hóa đại chúng khi nói về tấm gương vô ngã vị tha.
Chùa Dâu (còn có tên là Pháp Vân)
3.Tín ngưỡng Tứ Thiên Vương, Kiên Lao địa thần
Như đã nói ở phần đầu, kinh Kim Quang Minh được nhiều triều đại và các vua chúa kính ngưỡng như bộ kinh để bảo hộ quốc gia. Sở dĩ như vậy là tới từ việc trong kinh này đề cập tới lời nguyện hộ trì của Tứ Thiên Vương, đặc biệt là vị Đa Văn Thiên Vương đối với nơi nào truyền bá kinh này. Với bản Kim Quang Minh của Ngài Đàm Vô Sấm thời Bắc Lương là phẩm “Tứ Thiên Vương” (phẩm 6 và 7), còn Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh thời Đường của Ngài Nghĩa Tịnh là phẩm “Thiên Vương quan sát” thứ 11, phẩm “Thiên Vương hộ quốc” thứ 12.
Theo truyền thuyết dân gian, vào thời nhà Đường, niên hiệu Thiên Bảo nguyên niên (742), có giặc Tây Vực sang xâm chiếm thành Tây An. Lúc này, Đa Văn Thiên Vương đã hiện thân tại lầu thành Bắc Môn, dẫn trăm thần binh nghênh chiến với địch, phái “sóc vàng” cắn đứt dây cung của quân địch, đại phá vòng vây. Để cảm phục ơn đức của Ngài, Đường Huyền Tông (685-762) lập tức truyền lệnh cho các châu, phủ, thành ở vùng giáp ranh Tây Bắc đều tạc tượng Thiên Vương, sau đó lại lệnh cho các ngôi chùa xây dựng “biệt viện” thờ phụng Ngài.
Tứ Đại Thiên Vương
Tại Nhật Bản, Thánh Đức Thái tử (574-622) và Tô Ngã đã cầu khấn 4 vị Thiên Vương trước khi dẹp loạn dòng tộc Vật Bộ. Sau khi lời nguyện thành công, Tô Ngã đã cho xây dựng chùa Pháp Hưng, còn Thánh Đức Thái tử cho xây dựng chùa Tứ Thiên Vương với ước nguyện Tứ Thiên Vương thường trú khắp bốn phương ngày đêm gia hộ cho đất nước Nhật Bản được phồn thịnh, nhân dân được sống trong cảnh an bình, hạnh phúc. Ước nguyện của Thánh Đức Thái tử về sau được thực hiện bởi Thiên Vũ Thiên hoàng và Thánh Võ Thiên hoàng thông qua việc kiến lập các ngôi chùa Kim Quang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc Tự trên khắp cả nước. Các bộ kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Thắng Man, Nhân Vương Bát Nhã, Kim Quang Minh mà các vị thiên hoàng quan tâm đều đề cập đến sự hộ trì quốc gia và nhân dân, không chỉ hộ trì người bình dân mà còn hộ trì giới thượng lưu, quốc chủ nếu họ có niềm tin vào Phật giáo. Qua đó cho thấy, Nhật Bản ban đầu tiếp nhận Phật giáo là vì sự an bình và thịnh vượng của quốc gia.
Cũng như các quốc gia Đông Á, Việt Nam cũng không ngoại lệ, trong sách Thiền Uyển Tập Anh, quyển thượng, trong phần về Đại sư Khuông Việt (933-1011), có ghi: “Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết. Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum sê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ. Năm Thiên Phúc thứ 1 (981), binh Tống đến quấy nước ta. Vua biết rõ việc đó, liền sai Sư đến bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn vỡ”1.
Khuông Việt Đại sư
Trong nghiên cứu của tác giả Như Hạnh về hình tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam thời Trung cổ2 cũng cho thấy hình ảnh Thánh Gióng một trong Tứ Bất Tử (Tản Viên, Gióng-Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh) của Việt Nam chính là cải biến từ Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương một trong Tứ Thiên Vương. Từ câu chuyện các Thiên Vương phát nguyện hộ trì quốc gia lưu truyền kinh Kim Quang Minh mà Phật giáo tại Trung Hoa, Nhật Bản và cả Việt Nam thờ làm thần hộ pháp, hộ quốc, chiến thần… Sau này, dân gian Việt Nam đã Việt hóa thành một người anh hùng dân tộc của riêng mình, nhưng vẫn giữ hình ảnh chiến thần, vị thần cũng hòa nhập vào thần đạo bản địa thành một vị thánh lớn của quốc gia với nhiều đền thờ tại các huyện Gia Lâm, Sóc Sơn, Thường Tín của thủ đô Hà Nội cũng như nhiều nơi khác tại tỉnh Bắc Ninh, một “cái nôi” của Phật giáo Việt Nam.
Các chùa tại miền Bắc Việt Nam ngày nay, thờ chủ yếu hệ hộ pháp Khuyến Thiện, Trừng Ác, nhưng rất nhiều các chùa cổ nổi tiếng như chùa Thầy, chùa Dâu, chùa Nành… vẫn lưu giữ hệ thống tượng Tứ Thiên Vương, cho thấy hệ hộ pháp này cũng từng rất phổ biến tại nước ta.
Một trong những hình tượng nữa mà chúng tôi quan sát thấy sự ảnh hưởng từ kinh Kim Quang Minh tới hệ thống thờ tự Việt Nam đó là tượng Thổ địa, vị này thường đi thành cặp với tượng Giám trai (Tân Đầu Lư Phả La Đọa tôn giả). Tạo hình của tượng Thổ địa là mặt đỏ, râu trắng chính là vị Địa thần Kiên Lao trong Phật giáo chứ không phải Thổ địa riêng của bản cảnh mỗi khu đất xây chùa.
Theo Từ điển Phật học: “Trong mạn đồ la thai tạng của Mật giáo có vẽ 2 vị Kiên Lao địa thiên nam và nữ. Vị địa thiên nam ngồi trên tòa tròn, thân màu đỏ, đội mũ báu, tay trái bưng bát, trong bát có hoa tươi, tay phải đặt ở trước ngực, bàn tay hướng ra ngoài… Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, quyển 8, cho rằng tên gọi Kiên Lao địa thần (Phạm: Dfđhà-pfthivì-devatà) là do cái đức bền chắc của vị thần này mà ra, về sau vị thần này được Phật giáo tôn làm Bồ tát và thờ cúng”3. Vị địa thần này xuất hiện trong nhiều kinh điển, nhưng đặc biệt kinh Kim Quang Minh, vị này được nói đến trong 1 phẩm riêng lấy tên Ngài làm tên của phẩm. Trong bản Kim Quang Minh thời Bắc Lương là phẩm thứ 9 còn bản Kim Quang Minh Tối Thắng Vương thời Đường là phẩm thứ 18.
4. Nghi thức phóng sinh
Phóng sinh là một thiện hạnh quen thuộc đối với Phật tử Việt Nam từ xưa tới nay, hoạt động này gần đây bị xã hội lên tiếng chê trách khi mua các động vật bị bắt đem thả là đồng lõa với nạn săn bắt. Đây là cái nhìn có hơi phiến diện và có phần đồng nhất sự phóng sinh trong Phật, giáo với hành động giải cứu động vật của người đời. Trong đạo Phật không chỉ đơn thuần giải cứu các con vật ra khỏi nỗi khổ tạm thời mà còn là sự quy y, gieo duyên cho họ với Phật pháp hòng sớm muộn đưa họ ra khỏi luân hồi khổ đau. Một trong những hình ảnh sống động và đầy đủ nhất về phóng sinh phải kể đến chuyện của công tử Lưu Thủy (tiền thân đức Phật) trong kinh Kim Quang Minh (bản Bắc Lương là phẩm 16, bản thời Đường là phẩm 25).
Trong phẩm “Truyện của Lưu Thủy”, mô tả chi tiết khi Ngài giải cứu 10.000 chú cá trong hồ gồm cho ăn rồi xưng danh hiệu Phật là Bảo Kế Như Lai, thuyết về 12 nhân duyên và minh chú thích ứng với 12 nhân duyên cho chúng, sau đó cá chết rồi sinh lên thiên giới4. Như vậy cần phải đánh giá và nhìn nhận toàn thể về hoạt động phóng sinh, ngoài việc giải cứu các sinh vật còn có những nghi thức tán tụng danh hiệu Phật, chân ngôn, minh chú, thuyết pháp cho các loài đó nghe, việc thiện này ngoại đạo và người thế gian không hề có trong hoạt động giải cứu của họ. Nhìn thoáng qua việc phóng sinh của Phật giáo và người thế tục có vẻ giống nhau, nhưng thực ra thì thiện hạnh của Phật giáo ngoài phần thế gian còn có cả phần xuất thế gian và sâu sắc, lợi lạc hơn rất nhiều.
5. Tạm kết
Ngoài những sự ảnh hưởng tới kiến trúc nghệ thuật, văn hóa tín ngưỡng trong và ngoài Phật giáo như trên, kinh này còn được nhiều dịch giả, đại sư tán dương vì oai lực, lợi ích mang lại hòa bình cho thế giới, quốc gia, đó là điều rất thực tiễn ở đương đại khi xã hội hiện nay còn nhiều chiến tranh, thiên tai dịch bệnh.
Trong lời duyên khởi khi dịch bộ Kim Quang Minh Hiệp Bộ của Ni trưởng Như Ấn, bà có kể rằng vào năm 1965 (khi nước ta trong giai đoạn còn chiến tranh), thì sư trưởng của bà có nhập thất tụng bộ kinh này và thấy kinh dạy nơi nào tất cả nhân dân chí thành trì tụng kinh này, thì tai họa bặt dừng, nhân dân cõi đó được an lành, ngoại xâm không còn xảy ra… Vì thế, sau đó sư trưởng phát tâm dịch bộ kinh này ra để phổ biến khắp nơi để nhân dân sớm dứt tai ương.5
Đại sư Lama Zopa Rinpoche, nhà sáng lập Trung Tâm Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa (FPMT) người chỉ đạo kiến lập tượng “Phật Ngọc cho hòa bình thế giới”6, thì nói về kinh Kim Quang Minh như sau: “Điều có lợi nhất để có hòa bình và chấm dứt chiến tranh là trì tụng Kinh Ánh Sáng Vàng”7.
Đặc biệt với Việt Nam, một quốc gia có lịch sử trải qua nhiều cuộc chiến, thì giá trị của hòa bình, ai trong chúng ta cũng ý thức được, nên bộ kinh này là “viên ngọc quý” trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam cần được nghiên cứu và quảng bá.
1. Lê Mạnh Thát, Thiền Uyển Tập Anh, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1976, trg 22.
2. Như Hạnh, “Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam thời Trung cổ”, https://giacngo.vn/ty-sa-mon-thien-vuongsoc-thien-vuong-phu-dong-thien-vuong-trong-ton-giao-viet-nam-thoi-trung-copost10639.html.
3. Cổng thông tin GHPGVN, Từ điển onlie, Kiên Lao địa thiên, https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/kien-lao-dia-thien-k35590.html
4. Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, dịch giả Thích Trí Quang, NXB Tôn giáo, 2010, trg 469-471.
5. Kinh Kim Quang Minh Hiệp Bộ, dịch giả Tỳ khiêu ni Như Ấn, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, trg.10.
6. https://giacngo.vn/tuong-phat-cho-hoa-binh-the-gioi-trung-bay-lan-dau-tien-o-vietnam-post3250.html
7. https://fpmt.org/education/prayers-and-practice-materials/sutras/golden-light-sutra/