Bỏ qua nội dung Bỏ qua thanh bên Bỏ qua chân trang

SƠ QUÁT VỀ CHỮ “SỢ” THEO DUY THỨC HỌC

 

KHÁNH HOÀNG

 

 

“Sợ” là một trong những biểu hiện phổ quát và thường trực nhất trong tâm thức của tất cả con người và mọi chúng sinh trong cuộc sống thường ngày bất kể tuổi tác, giới tính, mạnh yếu, giàu nghèo, sang hèn… “Sợ” cũng thường là phản ứng tiêu cực về tâm lý và cả về sinh lý, là cảm ứng nơi thân tâm, là phản xạ tự nhiên của con người bình thường khi gặp phải các mối hiểm nguy, không tốt lành, đe dọa đến sự an ổn, vận hành bình thường trong đời sống… Có rất nhiều nỗi sợ thường xuyên có mặt trong tâm thức cùng biểu hiện ra ngoài, nơi thân thể của con người khiến nhiều lúc có ra mặt mũi tái xanh, chân tay cứng ngắc, tim đập loạn xạ, thở không ra hơi… Các nỗi sợ xuất hiện khi ta phải chịu đựng, cảm thụ các tai ách, tai nạn, hoàn cảnh hoạn nạn, có hại cho sinh mạng, sức khỏe, bệnh tật, tài sản… đến bản thân, gia đình, họ hàng, xóm làng, những người thân yêu, những bậc tôn kính… ngay từ khi chào đời và liên tục duy trì kéo dài mãi cho đến lúc ta xuôi tay, nhắm mắt.

Xét về nguyên nhân, các mối hiểm nguy có thể xảy đến từ 2 căn nguồn chính yếu. Căn nguồn chính yếu thứ nhất là từ thiên nhiên, như các thiên tai về lửa (núi lửa, cháy rừng, các ách nạn về hỏa tai…), về nước (như lũ lụt, sóng thần, nước ngập, nước xoáy, các ách nạn về thủy tai…), về gió (như giông bão, lốc xoáy, các ách nạn về phong tai..), về đất (động đất, đất sụp, đất lở, đất chuồi, các ách nạn về địa tai…), về thú dữ (như hùm, beo, rắn, rết…), về dịch bệnh (như các bệnh do thời tiết khí hậu, do vi khuẩn hoặc do siêu vi khuẩn độc hại…). Ngày nay, nhờ vào khoa học phát triển, các mối hiểm nguy từ thiên nhiên này đã ngày càng được hiểu biết sâu rộng, nên dần dà được kiểm soát và giảm thiểu. Căn nguồn chính yếu thứ hai là từ con người, bao gồm các tai ách về chiến tranh, giết chóc, cướp phá, trộm cắp, tranh chấp, ẩu đả, mắng chửi… Do nghiệp thức sâu dày khiến tham vọng, sân hận, si mê, chấp nê… của con người ngày càng lớn thêm; nay lại theo đà phát triển khoa học-kỹ thuật, cùng với đà dân số gia tăng trên trái đất mà chưa có sự dắt dẫn đúng hướng, đúng mức từ các căn bản đạo đức-tâm linh; cộng thêm do sự thiếu hiểu biết và cảm thông với nhau giữa các con người, các quốc gia, các dân tộc, các tôn giáo, các chính kiến…

Xét về dạng loại, tính chất, sắc thái của nỗi sợ, chúng ta có thể phân định ra rất nhiều hoặc có thể nói là có vô lượng dạng loại của nỗi sợ gắn liền theo mức độ khả năng tác hại vào nơi thân-tâm, hoàn cảnh và môi trường sống của người chịu đựng nỗi sợ. Có các nỗi sợ gắn liền với không gian (như sợ khoảng trống, sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ độ cao, sợ vực sâu…); có các nỗi sợ liên hệ đến thời gian (như sợ nhớ về quá khứ, sợ nghĩ đến tương lai, sợ buộc ràng với hiện tại…); có các nỗi sợ liên quan đến con người (người hung dữ, người độc ác, người sâu hiểm…); đến các sinh vật (thú dữ, sâu bọ, vi trùng, siêu vi trùng… gây ra những mối hiểm nguy, có hại); đến các vật thể dễ gây tổn thương (vũ khí, đao kiếm, súng đạn, chất nổ…), và cả đến các nỗi niềm ngay trong tâm thức của mỗi người (nỗi muộn phiền, niềm cô đơn, nóng giận, bực bội…) nơi đời sống hàng ngày… Ngoài ra, còn có vô số nỗi sợ khác từ nơi các vọng tưởng đảo điên, huyễn hóa, không có thật nữa.

Mức độ tác hại của nỗi sợ tùy theo 2 yếu tố: Một là tùy vào nơi cảnh sắc, hoàn cảnh… có hàm chứa những hiểm nguy; và hai là tùy vào nơi căn cơ, tâm thức chấp ngã (bám chấp vào cái Ta, thân ta, tâm ta) và chấp ngã sở hữu (bám chấp vào những cái của Ta, những cái tự cho rằng thuộc về Ta như tài sản, danh vọng, gia đình, bạn bè,…) nhiều-ít, mạnh-yếu, sâu-cạn… Nhìn chung, quy luật tất yếu ở đây là nếu năng lực chấp ngã và ngã sở hữu càng mạnh, càng lớn, càng nhiều thì sự sợ càng khủng khiếp, càng thường trực ở khắp mọi nơi, mọi lúc nơi người chịu đựng nỗi sợ. Do đây, không phải nỗi sợ chỉ có ở người nghèo hèn, người không có thế lực, người thân cô thế cô; mà người giàu, người quyền cao, chức trọng, có nhiều quyền hành, lắm thế lực cũng thường khi sợ triền miên, sợ trầm trọng, sợ khốc liệt, sợ dữ dội… Vậy có thể xem “Sợ” là mẫu số chung, là biểu hiện tuyệt vời về tánh bình đẳng nơi tất cả mọi người và cả cho muôn loài chúng sanh. Tác hại nghiêm trọng thông thường nhất là các nỗi sợ về sự sống còn, sinh tồn, mạng căn của bản thân, gia đình, gia tộc,  bạn bè, làng xóm, xã hội, quốc gia… Tác hại bớt nghiêm trọng hơn là các nỗi sợ về bệnh tật, thương tổn, suy giảm về thân-tâm nơi tự thân, gia đình, thân nhân… Tác hại nhẹ hơn là các nỗi sợ về tiêu hao, mất mát, thiếu hụt về tài sản sở hữu (tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, phương tiện mưu sinh…) và về danh vọng, uy tín, thể diện, thế lực… Nhưng dù mức độ nặng nhẹ ra sao, chung quy đều là “Sợ”, sợ khắp nơi, sợ mọi lúc, sợ ngoài, sợ trong, sợ gần, sợ xa, sợ thân, sợ sơ… Ngôn ngữ Việt Nam thông thường được cảm nhận có phân biệt tổng quát ra 2 nỗi sợ chính yếu là “sợ hãi” và “ sợ sệt” tùy theo sự tương quan đến mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít, nặng hay nhẹ của các nỗi sợ vừa nêu trên tác động vào tâm thức của người chịu đựng nỗi sợ: Sợ hãi là sợ đến mức kinh hãi, tâm thức bị tán loạn đến mức không còn có ý thức, lý trí phân biệt nên không còn có thể biết cân nhắc, tính toán đúng-sai, hay-dở, thiệt – hơn, nặng – nhẹ, thân – sơ, tốt-xấu…; Sợ sệt là sợ nhưng còn có khả năng phân biệt, còn có đủ sức để biết e dè, biết chần chừ, biết do dự, đắn đo… vì còn có đủ ý thức, lý trí để nhận định đúng-sai, hay-dở… Từ nơi 2 nỗi sợ (sợ hãi, sợ sệt) chính yếu này, còn có thể kể ra nhiều nỗi sợ trung gian khác như kinh sợ, hoảng sợ, khiếp sợ, ghê sợ, e sợ, kính sợ, nể sợ…

Theo Duy Thức học, vô lượng các nỗi sợ nêu trên đều cảm nhận là được xuất phát ra từ nơi bản Ngã (cái Tôi, cái Ta) của tất cả dạng loại chúng sinh trong tam giới (Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới). Bản Ngã này lại có khởi nguồn từ Mạt Na thức và được trưởng dưỡng, phát triển vững mạnh, kiên cố thêm nơi tiền Lục thức (Sáu thức trước), nhất là ở Ý thức. Mạt Na thức là Thức năng biến thứ hai (sau A Lại Da thức), cũng là thức thứ bảy của “Bát Thức Tâm Vương”. Mạt Na thức cũng là chuyển thức đầu tiên của 7 chuyển thức. 7 chuyển thức này, còn có tên gọi là tiền Thất thức (Bảy thức trước), bao gồm: 1.Mạt Na thức, 2.Ý thức, 3.Nhãn thức, 4.Nhĩ thức, 5.Tỷ thức, 6.Thiệt thức, 7.Thân thức. 6 chuyển thức sau chính là tiền Lục thức, cũng gọi là Thức năng biến thứ ba (sau A Lại Da thức và Mạt Na thức). 5 chuyển thức sau còn được gọi chung là tiền Ngũ thức (Năm thức trước). Mạt Na thức còn có tên gọi là “Ý Căn” do nó được xem là căn nguồn, đầu mối chính yếu trong sự khởi sinh ra Ý thức. Do không có khởi nguồn trực tiếp từ A Lại Da thức mà chỉ có khởi nguồn từ các phản ứng tâm thức bảo vệ và phát triển bản ngã hư vọng từ Mạt Na thức và tiền Lục thức, “Sợ” không được xem là một loại tâm sở như 51 tâm sở của Bát Thức Tâm Vương. Vì tâm sở trong Duy Thức học được xem là tướng trạng luôn khởi lên từ Bát Thức Tâm Vương, cùng tương ứng với Bát Thức Tâm Vương, và tương quan hệ thuộc vào Bát Thức Tâm Vương (“hằng y tâm khởi, dữ tâm tương ứng, hệ thuộc ư tâm”, với chữ “tâm” ở đây chính là Bát Thức Tâm Vương).

Mạt Na thức là chuyển thức trung gian giữa 2 bên là bên A Lại Da thức (gọi là “Bổn” vì A Lại Da thức còn được gọi tên là Căn bản thức) và tiền Lục thức (gọi là “Tình” vì tiền Lục thức chính là nơi khởi nguồn cho tất cả tình cảm của chúng sinh). Mat Na thức nương tựa vào A Lại Da thức rồi chấp lấy Kiến phần của A Lại Da thức làm tự ngã (Ngã tướng sơ khởi, Ngã tướng nòng cốt) nên Mạt Na thức có thể xem là có 2 tánh chủ yếu: (1) Tánh Hữu phú vô ký (“Hữu phú” = có nơi nương tựa là nương bám và thức A Lại Da – “Vô Ký” = không phân biệt thiện-ác, phải – quấy, đúng-sai) và (2) Tánh Tư lương chấp ngã (Tư lương = nguồn liệu cần thiết cho công năng tư duy; Chấp ngã = tất cả các tư duy đều hướng về, xoáy vào trọng tâm Ngã chấp). Ngã tướng không có bản chất thực sự, mà Mạt Na thức lại bám chấp vào Ngã tướng nên cảnh của Mạt Na thức chỉ là cảnh “Đới chất” và thuộc về “Phi lượng”. Nhưng điều này cũng làm gia tăng số lượng tâm sở và khiến phát triển cả về phẩm chất của các tâm sở ở Mạt Na thức khi đem so sánh với A Lại Da thức, trong khi thức A Lại Da chỉ có 5 tâm sở biến hành (1.Xúc, 2.Tác ý, 3.Thọ, 4.Tưởng, 5.Tư) với tính cách mênh mang, nhẹ nhàng; nay qua đến Mạt Na thức, số lượng tâm sở được gia tăng lên đến 18 tâm sở. Vậy nếu đem so với A Lại Da thức, Mạt Na thức đã có thêm 13 tâm sở như sau: 1. Tâm sở Biệt cảnh (Huệ), 4. Tâm sở Căn bản phiền não (1.Tham, 2.Si, 3.Mạn, 4.Ngã kiến), và 8 Đại tùy phiền não (1.Trạo cử, 2.Hôn trầm, 3.Bất tín, 4.Giải đãi, 5.Phóng dật, 6.Thất niệm, 7.Tán loạn, 8.Bất chánh tri). 4 tâm sở Căn bản phiền não của Mạt Na thức, còn gọi là 4 Tư hoặc, đều là những phiền não thâm sâu, tận cùng nơi tâm thức của chúng ta. Chúng giống như là những tiếng nói thầm thì vang vọng thường trực, liên tục nơi đáy tâm thức, nhưng chúng cũng chỉ là những sản phẩm, những bóng dạng xuất sinh từ ý hướng Ngã chấp nơi Mạt Na thức mà thôi. Điều này, khiến 4 tâm sở phiền não này đều có danh xưng gắn liền với “Ngã”. Như tâm sở phiền não Tham còn được gọi là “Ngã ái”, Si còn được gọi là “Ngã si”, Mạn còn được gọi là “Ngã mạn”,… Điều đặc sắc là tâm sở (Căn bản phiền não) “Ngã kiến” chỉ có ở nơi Mạt Na thức mà không có nơi các thức Tâm Vương khác. Lý do là khi qua đến tiền Lục thức, Ngã kiến đã được phát triển và biến tướng ra thành Kiến hoặc với 5 loại khác nhau được phân định là: 1.Thân kiến, 2. Biên kiến, 3.Kiến thủ, 4.Giới cấm thủ, 5.Tà kiến. Do đây đã khiến có ra sự gia tăng số lượng tâm sở nơi tiền Lục thức. Với tổng số 18 tâm sở trong đó có đến 12 tâm sở (2/3 tổng số) đều thuộc về tâm sở phiền não; Mạt Na thức, căn nguồn Chấp ngã, đích thực cũng chính là căn nguồn của tất cả khổ đau, sợ hãi, sợ sệt thường trực và trọng yếu của mọi con người và mọi sinh vật. Như được đúc kết cô đọng, tinh gọn trong 2 bài kệ đầu tiên nói về Mạt Na thức của Bát Thức Quy Củ Tụng (Tác giả: Tam Tạng Pháp Sư Đường Huyền Trang (602-664)):

Bài 1“Đới chất, hữu phú, thông tình bổn

Tùy duyên chấp ngã lượng vi phi

Bát Đại, Biến Hành, Biệt Cảnh Tuệ

Tham Si Ngã Kiến Mạn tương tùy”.

Tạm dịch:

“Mang bản chất, nương tựa vào A Lại Da, thông suốt hai bên Tình va Bổn

Tùy duyên chấp Ngã với phi lượng

Có 8 Đại tùy phiền não, 5 Biến hành, và 1 Biệt cảnh tuệ

Tương hệ và tùy thuộc với 4 Căn bản phiền não là Tham, Si, Ngã Kiến, Mạn”.

Bài 2: “Hằng thẩm tư lương ngã tướng tùy

Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê

Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi

Lục chuyển hô vi nhiễm tịnh y”.

Tạm dịch:

Tùy thuộc Ngã tướng luôn tư lương thẩm xét

Chúng hữu tình ngày đêm bị trấn áp, hôn mê

Bốn Căn bản phiền não và tám Đại tùy phiền não tương ưng sinh khởi

Gọi là làm nơi nương tựa nhiễm tịnh cho Sáu chuyển thức”.

Qua đến tiền Lục thức, bản Ngã và ý hướng chấp Ngã (xuất sinh từ Mạt Na thức) đã được phong phú hóa, phức tạp hóa và cụ thể hóa nên được thể hiện đậm nét, rõ ràng hơn. Đây là do tiền Lục thức có thêm 2 yếu tố là Cảnh và Lượng. 2 yếu tố này luôn có 3 tánh là Thiện, Ác và Vô Ký (không Thiện, không Ác); không còn chỉ là Vô Ký như ở A Lại Da thức và Mạt Na thức nữa. Điều này, cũng khiến Ngã tướng hư vọng từ Mạt Na thức có thêm sự phân biệt ra hai bên (nhị biên) nơi tiền Lục thức khiến có phân biệt chi tiết hơn về Năng và Sở, chủ thể và khách thể, Thức và Cảnh, Tâm và Vật, Ta và Người… mà phát triển ra tứ tướng là Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng. Sự tựu thành và phát triển ra tứ tướng được cảm nhận có tương quan mật thiết đến nghĩa lý thâm sâu về “Hàng Phục Tâm” nơi kinh Kim Cang và về “Chúng Sanh Trược” nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm. Điều này cũng có tương quan đến thể tánh và thể tướng của tiền Lục thức: Số lượng tâm sở được nâng lên 34 ở tiền Ngũ thức (tăng thêm 16 tâm sở so với Mạt Na thức), và lên đến mức tối đa là 51 tâm sở ở Ý thức (tăng thêm 33 tâm sở so với Mạt Na thức, khiến tổng số tâm sở ở Ý thức gần gấp 3 lần so với Mạt Na thức).

Tiền Ngũ thức chỉ có Tánh Cảnh, nghĩa là dù Cảnh như thế nào (cảnh Thiện, Ác , hay Vô Ký) thì 5 giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) chỉ tiếp thu, ghi nhận như thế ấy, đầy đủ 3 tánh, một cách khách quan, thụ động, không thêm, không bớt… Do vậy, chất lượng nhận thức của tiền Ngũ thức được gọi là “Hiện Lượng”, chất lượng của Tánh Cảnh. Trong tu tập Thiền định, tiền Ngũ thức chỉ có đầy đủ hoạt động, dụng năng của 5 giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) ở Dục giới, nhưng khi lên đến Nhị Địa của Sắc giới (Định Sanh Hỷ Lạc Địa), tiền Ngũ thức chỉ còn dụng năng ở 3 giác quan là mắt, tai và thân. (Điều này minh định là mức độ Thiền định càng cao thì dụng năng của tiền Lục thức bấu víu vào 6 trần cảnh càng được giảm bớt). Số lượng 16 tâm sở được tăng thêm nơi tiền Ngũ thức so với Mạt Na thức được kể tên và tính toán như sau: Thêm 4 tâm sở Biệt Cảnh (1.Dục, 2.Thắng Giải, 3.Niệm, 4.Định). Tâm sở Biệt Cảnh thứ 5 là Huệ đã có sẵn ở Mạt Na thức; thêm 11 tâm sở Thiện (1. Tín, 2. Tàm, 3. Quý, 4. Vô Tham, 5. Vô Sân, 6.Vô Si, 7.Cần (Tinh Tấn), 8.An (Khinh An), 9. Bất Phóng Dật, 10. Hành Xả, 11. Bất Hại) (Mạt Na thức không có bất cứ tâm sở Thiện nào); thêm 2 Trung Tùy Phiền Não (1. Vô Tàm, 2.Vô Quý). Mạt Na thức cũng không có bất cứ Trung Tùy Phiền Não nào; bớt đi 2 Căn bản phiền não là Mạn và Ngã Kiến, nhưng lại có thêm tâm sở Sân (như thế tiền Ngũ thức chỉ có 3 tâm sở Căn bản phiền não là 1.Tham, 2.Sân, và 3.Si). Các điều trên được cô đọng qua bài kệ nói về tiền Ngũ thức của Bát Thức Quy Củ Tụng, như sau:

“Tánh Cảnh, Hiện Lượng, thông Tam Tánh

Nhãn, Nhĩ, Thân tam Nhị Địa cư

Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện thập nhất

Trung nhị, Đại bát, Tham Sân Si”.

Tạm dịch:

Tánh Cảnh, Hiện Lượng thông với ba Tánh

Đến Nhị Địa vẫn còn dùng 3 căn là mắt, tai, thân thể

Có đủ 5 Biến Hành, 5 Biệt Cảnh, 11 Thiện tâm sở

2 Trung Tùy, 8 Đại Tùy, 3 Căn bản (Tham, Sân, Si) phiền não”.

Tánh Cảnh và Hiện Lượng của tiền Ngũ thức khi được đưa đến Ý thức (Đệ lục thức, thức thứ 6) đã trở nên có tính chất phong phú, phức tạp và mạnh mẽ hơn, thể hiện qua 3 Cảnh và 3 Lượng của ý thức. 3 Cảnh là Tánh Cảnh (đã nêu ở phần Tiền Ngũ thức), Đới Chất Cảnh (đã nêu ở phần Mạt Na thức), và nay có thêm Độc Ảnh Cảnh. Độc Ảnh Cảnh là cảnh chỉ có độc nhất ở Ý thức, và đó chỉ là những bóng hình, ảnh tượng không có thật, chỉ do Ý thức phân biệt, so đo, tính toán, tưởng tượng mông lung mà có. Số lượng 33 tâm sở được tăng thêm nơi Ý thức so với Mạt Na thức được kể tên như sau: Thêm 4 tâm sở Biệt Cảnh (như đã nêu ở phần tiền Ngũ thức), thêm 11 tâm sở Thiện (như đã nêu ở phần tiền Ngũ thức), thêm 1 Căn bản phiền não là Nghi (như thế Ý thức có đủ 5 căn bản phiền não là 1.Tham, 2.Sân, 3.Si, 4.Mạn và 5.Nghi), thêm 10 Tiểu tùy phiền não (1.Phẫn, 2.Hận, 3.Phú, 4.Não, 5.Tật, 6.Xan, 7.Cuống, 8.Xiểm, 9.Hại, 10.Kiêu), thêm 2 Trung tùy phiền não (như đã nêu ở phần tiền Ngũ thức), thêm 4 tâm sở Bất Định (1.Hối, 2.Miên, 3.Tầm, 4.Tư). Các điều này được đúc kết qua bài kệ nói về Đệ lục thức của Bát Thức Quy Củ Tụng, như sau:

“Tam tánh, tam lượng, thông tam cảnh

Tam giới luân thời dị khả tri

Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất

Thiện ác lâm thời biệt phối chi”.

Tạm dịch:

Ba tánh, ba lượng, thông ba cảnh

Ba cõi xoay vần có thể dễ biết”.

Đến đây, Duy Thức học lại giúp có câu trả lời cho câu hỏi: “Đến khi nào chúng ta mới bớt sợ và mới hết sợ?”. Câu trả lời tổng quát có thể được cảm nhận và đúc kết là: Do “Sợ” là một đặc thái tâm thức chấp mắc sai lầm vào bản ngã nơi mỗi chúng ta, là sản phẩm được xuất sinh từ Mạt Na thức, rồi được bồi đắp nơi tiền Ngũ thức, và trưởng dưỡng, phát triển tối đa nơi Ý thức nơi tâm thức chúng ta; nên muốn “Bớt Sợ” thì cần nhận biết rõ tướng trạng bản ngã rồi ra sức bào mòn bớt ý hướng chấp Ngã nơi Ý thức; và nếu muốn “Hết Sợ” thì cần buông bỏ rốt ráo bản ngã nơi Mạt Na thức qua xuyên phá vượt qua được Mạt Na thức và qua buông bỏ tất cả những mầm giống chủng tử Nghiệp thức của bản ngã nơi A Lại Da thức.

Trong nhà thiền có câu chuyện kể: “Đời Trinh Quán nhà Đường, Tứ Tổ Đạo Tín xa xem khí tượng núi Ngưu Đầu, chùa U Thê, biết có dị nhân ở đó, bèn tìm đến. Thấy ngài Pháp Dung đang ngồi cứng đờ, chừng như chưa bao giờ ngoái cổ lại.

Tổ hỏi “Ông làm gì ở đây?”.

Sư đáp: “Quán tâm”.

Tổ: “Quán là người nào? Tâm là vật gì?”.

Sư không đáp, đứng dậy, đảnh lễ hỏi: “Chẳng hay tôn xá của Đại đức ở đâu?”.

Tổ: “Bần đạo chẳng đình trụ nơi đâu, Đông cũng vậy, mà Tây cũng vậy”.

Sư: “Đại đức có biết Thiền sư Đạo Tín không?”.

Tổ: “Hỏi ông ta làm gì?”.

Sư: “Vì ngưỡng mộ cao đức đã lâu, những mong được chiêm bái”.

Tổ: “Đạo Tín là bần đạo đây”.

Sư: “Nhân sao lên đây?”.

Tổ: “Cốt thăm ông. Có chỗ nào an nghỉ không?”.

Sư chỉ về phía sau, nói: “Có cái cốc riêng”.

Bèn đưa Tổ đến am ấy. Nhìn quanh am, thấy dấu vết loài hổ lang,

Tổ dang đôi tay, tỏ ra dáng sợ hãi.

Sư hỏi : “Còn có cái đó sao?”.

Tổ: “Có thấy gì nữa không?”.

Sư không đáp.

Chặp sau, Tổ bèn viết lên tảng đá Sư ngồi tịnh hàng ngày một chữ “Phật”; Sư nhìn thấy, lộ vẻ khó chịu.

Tổ hỏi: “Còn có cái đó sao?”.

Sư chưa hiểu được thâm ý của Tổ, bèn đảnh lễ, xin lắng nghe lời tâm yếu…

 

Cuộc hội vấn của Tứ Tổ Đạo Tín và Thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung

 

Qua câu chuyện Thiền này, có thể rút ra vài điều sau:

Về câu hỏi thứ nhất: “Quán là người nào?”: Tổ đã quất thẳng vào tận chiều sâu nơi Mạt Na thức chấp Ngã của Sư;

Về câu hỏi thứ hai: “Tâm là vật gì?”: Lại có thêm nhát búa bổ vào nơi Ý thức chấp pháp. 2 câu hỏi này thật không dễ có thể trả lời suôn sẻ, nên Sư im lặng, không đáp.

Rồi Tổ dang đôi tay, tỏ ra dáng sợ hãi dấu vết loài hổ lang, như một điệu bộ nhẹ nhàng như mây bay, giản đơn, quen thuộc mà mọi người ai cũng dễ hiểu để khích dẫn lời phát biểu từ nơi người xem, khiến Sư không thể không buông ra câu hỏi: “Còn có cái đó sao?”.

Để nhổ đinh, tháo chốt cho câu hỏi này, Tổ đã viết chữ Phật lên trên tảng đá Sư hàng ngày ngồi tịnh tọa. Rồi ngay khi thấy Sư lộ vẽ khó chịu, Tổ đã ban xuống nhát búa sau cùng: “Còn có cái đó sao?”. Nhát búa này ban đầu đã đi từ Sư đến Tổ, nay Tổ đã khéo léo, phương tiện thiện xảo xoay ngược đi trở lại Sư.

Sư và Tổ cùng nói về “Cái Đó”. “Cái Đó” này được biểu hiện qua động thái dang hai tay như tuồng tỏ vẻ sợ hãi của Tổ và thái độ khó chịu, ngần ngừ… của Sư. Và cũng nơi “Cái Đó”, qua suốt chiều sâu trong tâm thức lại làm bật sáng lên ý nghĩa giải đáp cho cho 2 câu hỏi của Tổ lúc sơ kiến cùng Sư: “Quán là người nào? Tâm là vật gì?” và cả cho câu hỏi sau cùng của Tổ: “Còn thấy cái gì nữa không?” vậy.

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã nêu rõ: “…Bồ Tát y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn”. Có thể tạm dịch thoát đoạn kinh văn này như sau: “Bồ tát (đã Kiến đạo) tu tập trí tuệ Bát nhã vượt đến bờ kia, tâm sẽ không còn bị trở ngại vọng chướng. Do không còn bị vướng mắc bởi những trở ngại này, Bồ tát (nay Kiến tánh) không còn có các nỗi sợ hãi, xa rời các mộng tưởng điên đảo, thể nhập vào Niết bàn tối hậu”.

Cảm nghĩ của bạn?
0Tuyệt vời0Tệ0Vui vẻ0Buồn
Chùa Phật học Xá Lợi

Chịu trách nhiệm xuất bản: Hòa Thượng Thích Đồng Bổn

Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. HCM

Thời gian mở cửa

Thứ Hai - Chủ nhật
Sáng: 8:00 - 11:00
Chiều: 14:00 - 19:00

Theo dõi chúng tôi