Bỏ qua nội dung Bỏ qua thanh bên Bỏ qua chân trang
Nguyễn Tài Ngọc muốn thay Việt ngữ bằng chữ Nôm và Hán ngữ
*Lưu ý: Đây là ý kiến và quan điểm của tác giả muốn đăng mang tính chất tham khảo, không phải chủ trương của trang Phật học.

Trong suốt thập niên 90 sau khi đã biên dịch hơn chục đầu sách Điện toán và Đông y châm cứu từ
Anh và Hán ngữ sang Việt ngữ, tôi nhận thấy Việt ngữ có gần đầy đủ những từ vựng để dân tộc ta
có thể tiếp cận tri thức đương đại thông qua những bản dịch thuật về đủ mọi chủ đề. Dù một số
thuật ngữ ngoại quốc về khoa học kỹ thuật đương đại khá mới mẻ mà ta chưa tìm được từ (chữ)
Việt thích hợp có nghĩa tương đương thì chúng ta có thể tạm dùng luôn thuật ngữ Anh, Pháp ngữ
đó, thí dụ: RAM, ROM, HDD, CPU, EPROM, OS, scanner, software, hardware… Vài chục năm
trước, sách giáo khoa của chúng ta đã từng dùng chữ Thales, Ohm, Joule, Clorure, Natri, Sin, Cos,
Tang, Cotang… trong những môn Lý Hóa và Toán học… rồi mọi người cũng dần quen đến nỗi
những chữ đó gần như bị Việt hóa.
Tình cờ tôi vào trang <http://www.tvvn.org/vo-van-hoa-nguyen-tai-ngoc đã viết vài dòng về bà chủ
quán Bún chửi ở Hà Nội, song đây chỉ là cái cớ để một người mắc tâm bệnh đương đại mà Tây Y
gọi là “Hội chứng rối loạn Trump” (TDS = Trump Derangement Syndrome) được dịp thả ga thóa
mạ Donald Trump. Đây là một dạng bệnh tâm thần, vì người bệnh hay sinh sự gây gổ, chụp mũ
những ai bất đồng ý kiến, tuy bệnh này không nguy hiểm tới tính mạng, nhưng nếu không được
sớm trị liệu thì bệnh tình càng trầm trọng có thể dẫn đến chuyện giết người mà mình ghét. Nguyễn
Tài Ngọc đã nêu ra trong mấy chục dòng tất cả những câu chửi rủa tục tằn, như “ass” (cái đít),
“bullshit” (cứt bò), “motherfucker” (Đ.M.), “damn” (chết bằm), “crap” (cứt), “son of a bitch” (đồ
chó cái), “shithole” (lỗ đít)… của Donald Trump trong nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên từ năm 2016
tới 2020. Lý do cũng dễ hiểu vì Trump bị Thượng viện, Hạ viện và một số Thống đốc đảng Dân
Chủ kịch liệt chống đối lại chuyện xây tường biên giới Mỹ-Mễ, chuyện đánh thuế 30% lên hàng
nhập khẩu của Trung Cộng; ngoài ra, chúng lại ủng hộ việc mở cửa biên giới để di dân lậu và băng
đảng tội phạm đem ma túy vào Mỹ, chi hàng trăm triệu USD cho lũ di dân lậu… Do vậy, Trump đã
chửi vung vít chẳng chừa một ai vì họ đã làm trái ý gây hại tới chính sách MAGA.
Vì tò mò tôi đã tìm đọc một số bài viết của bệnh nhân TDS này và đã tìm thấy bài “Người sáng tạo
chữ Quốc ngữ và Lịch sử tiếng Việt” của Nguyễn Tài Ngọc đề xướng bỏ chữ Quốc ngữ để thay
bằng chữ Nôm hay Hán ngữ.
1. Cái sai là thay chữ Quốc ngữ bằng chữ Nôm hay chữ Hán
Để rộng đường dư luận, tôi xin lược trích vài đoạn trong bài “Người sáng tạo chữ Quốc ngữ và Lịch
sử tiếng Việt” của Nguyễn Tài Ngọc đăng trong tps://saigonocean.com/index.php/en
[Để kết luận, tôi có một ngu ý về chữ Quốc ngữ. Tôi đi du lịch khắp thế giới, thấy rằng người nào
nói được một trong bốn thứ tiếng: Anh, Pháp, Tây-Ban-Nha và Trung Quốc thì sẽ an toàn trên xa lộ.
Dĩ nhiên tiếng Anh là nâm-bờ-oăn vì quốc gia nào cũng có người nói tiếng Anh, nhưng nếu biết
được ba thứ tiếng kia thì chắc chắn sẽ lãnh được lô an ủi. Thế giới chẳng ai nói tiếng Việt, trừ công
dân nước Việt Nam. Vì thế, tiếng Việt vô tích sự không giúp được người Việt học hỏi hay tìm việc
làm với thị trường ngoại quốc. Do đó, tôi nghĩ thà Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, các
giáo sĩ Bồ-Đào-Nha đừng sáng tạo chữ Quốc ngữ thì người Việt bây giờ vẫn dùng chữ Nho và vì
thế người Việt vẫn còn hiểu tiếng Trung Quốc để có cơ hội tiến thân. Thử tưởng tượng nếu tôi còn
nói chữ Nho thì bây giờ nếu đi ngang một tiệm ăn Tầu ban sáng, tôi đọc và hiểu chữ Tầu thì tôi sẽ
biết tiệm nào bán dim sum để tôi vào ăn há-cảo và xíu-mại. Mà tại sao ngày xưa Francisco de Pina
và Alexandre de Rhodes tốn công mệt nhọc sáng tạo chữ Quốc ngữ làm gì? Bắt cả nước Việt Nam
nói tiếng Pháp thì có phải hay hơn không? Nước Congo, Phi Châu, cũng bị Pháp đô hộ như Việt

Nam nhưng Congo may hơn Việt Nam vì bây giờ dân Congo chính thức nói tiếng Pháp (ngoài thổ
ngữ). Khi chết, tôi sẽ tìm gặp Alexandre de Rhodes để hỏi tại sao ông ta tốn thì giờ hoàn thành chữ
Quốc ngữ mà không cố gắng bắt dân An Nam Mít dùng tiếng Pháp của Nã-Phá-Luân Đại Đế. Tôi
đã tuyên bố long trọng ý kiến này của tôi là ngu ý, là ý tưởng ngu xuẩn. Vì thế xin độc giả đừng
phùng mang trợn mắt gửi email chửi tôi là người mất gốc, xem thường tiếng Việt. (Nguyễn Tài
Ngọc, October 2023 – https://saigonocean.com/trangNTN.htm)]
Tôi không có ý gán Nguyễn Tài Ngọc tội phản quốc mà chỉ chê trách Tác giả có đầu óc ấu trĩ mà
người ta gọi là “trư não” 豬 腦 (zhù nao). Tôi không hiểu vì sao Blogger Nguyễn Tài Ngọc lại
muốn bỏ chữ Quốc ngữ (chữ ABC) mà toàn thể những người Việt sống trên dải đất hình chữ S cùng
những kiều bào đang sống rải rác trên khắp năm châu đều chỉ dùng chữ Quốc ngữ để làm phương
tiện thông tin liên lạc, truyền bá tư tưởng, học thuật… cũng như để bảo tồn và duy trì cho thế hệ
mai sau… để thay thế bằng chữ Nôm và chữ Nho hay chữ Hán vốn là một loại “Văn tự biểu ý” 表
意 文 字 (Ideograph) cũng được gọi là “Văn tự tượng hình” (Hieroglyph) là những ký hiệu biểu ý
(ideographic symbols) mà mỗi ký tự đơn (ký tự gốc) hay kép (ký tự gốc kết hợp với một ký tự nào
đó) đều không đánh vần được mà tự nó có một ý nghĩa riêng biệt, song khi được ghép lại sẽ mang ý
nghĩa khác với ký tự nguyên thủy (tức trước khi được kết hợp). Văn tự biểu ý được xếp vào hệ
thống phi ngữ âm. Song đặc điểm chung vẫn là để nói lên bất kỳ sự vật hữu hình và vô hình. Do
vậy, một từ này, không cần đọc lên, vẫn mang nhiều nghĩa: một chữ (từ) có thể có nhiều nghĩa, thí
dụ chữ “minh” 明 (míng) mà chữ này là sự ghép của 2 ký tự “nhật” 日 (rí = mặt trời) và “nguyệt”
月 (yuè = mặt trăng) mà người Việt đọc theo âm Hán Việt là “minh” có rất nhiều nghĩa: sáng, soi
sáng, làm rạng rỡ (như trong câu 大 學 之 道 在 明 明 德 “Đại học chi đạo, tại minh minh đức”
trong cổ thư Đại Học).
Hán tự và chữ Nôm quả thật khó học vì Hán tự có tới vài trăm ngàn từ; tuy từ điển Khang Hy, Từ
Hải, Từ Nguyên và một số từ điển Hán ngữ hiện đại … đều tìm cách loại bỏ bớt một số chữ cổ, ít
dùng, hoặc nhiều chữ có chung một nghĩa… nhưng cuối cùng chữ Hán cũng rất khó học cho mọi
người. Khi nhìn vào một chữ Hán nào đó, nếu chữ này Bạn không biết, thì Bạn cũng không biết đọc
ra sao; trái với Việt ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ… thì một khi Bạn vẫn có thể phát âm được, tuy không
hiểu nghĩa, do vậy, Bạn phải tra từ điển. Song cách tra từ điển Hán ngữ cũng rất nhiêu khê; tôi cũng
đã học chữ Hán hơn chục năm trời, song sự tra từ điển Anh, Pháp… rất dễ, còn cách tra từ điển chữ
Nho (Hán) quả thật rất phiền toái: nào là tra theo lối tìm bộ “thủ” (bút hoạch), tra theo lối đếm tổng
số nét, tra theo lối tứ giác (Vương Vân Ngũ) và hiện nay là Pin Yin (tức là phát âm chữ Hán theo
giọng Quan thoại/Bắc Kinh)… Trái lại, với một người Anh Mỹ khi học tiếng mẹ đẻ thì khi gặp chữ
“to eat” và khi họ đọc lên thì tự nhiên họ hiểu là “ăn,” hoặc người Pháp khi họ gặp chữ “manger,”
nếu đọc phát âm được chữ này thì tức khắc họ hiểu được nghĩa. Tương tự như người Việt chúng ta,
nếu biết đọc biết viết thì tự khắc khi đọc được chữ đó thì tự nhiên ta sẽ hiểu nghĩa. Thật dễ dàng
biết bao!
Tóm lại, chữ Hán quả khó học vì cách cấu tạo chữ rất rắc rối, luộm thuộm… Chẳng hạn, với chữ
“minh” 明 (míng) là chữ ghép của chữ “nhật” 日 (rí = mặt trời) bên trái và chữ “nguyệt” 月 (yuè =
mặt trăng) bên phải để hàm ý “sáng, sáng tỏ, rõ, công khai, sáng mắt, hiểu, quang minh chính đại.”
Đây là lối “chỉ ý/hội ý” vì họ nghĩ mặt trời và mặt trăng đều soi sáng mọi vật. Nhưng tôi thấy lối
này không đúng vì mặt trời và mặt trăng khi được đặt cạnh nhau làm ta nghĩ tới vấn đề “xung đột,
tương tranh” hơn là vấn đề “sàng, ánh sáng.” Đúng ra, nếu muốn nói tới ánh sáng chói lọi thì tổ tiên
Hoa tộc phải ghép ký tự 日 “nhật” (hoặc ở bên trái, phải, trên hay dưới) với một ký tự nào đó, nếu
muốn nói tới ánh sáng mờ mờ thì ghép ký tự 月 “nguyệt” với bất kỳ ký tự nào thì may ra mới hợp
lý. Tôi nhận thấy đa số chữ Hán (bộ “thủ” ghép với 1 ký tự nào đó) đều được ghép một cách gượng
ép rồi người đời sau cứ phải cố sức nhớ rất phiền phức! Đó chính là lý do mà hiện nay có rất nhiều

người Hoa còn mù chữ Hán, do vậy, tình trạng dân trí luôn ở mức thấp không sao tiến bộ vì chữ
Hán thuộc loại “học tới đâu thì biết đến đấy,” do vậy, vẫn là một trở ngại cho sự tiếp thu tri thức.
Đó chính là lý do mà vào cuối thời Mãn Thanh một số học giả và ngôn ngữ học người Hoa đã từng
“quy kết” chữ Hán là rào cản cho kiến thức của dân tộc Hoa Hạ nào là muốn Trung quốc tiến bộ và
theo kịp trào lưu hiện đại thì cần phải vứt bỏ Hán ngữ hay ít ra là phải cải tổ lại Hán ngữ.
Học giả Đỗ Tử Kình 杜 子勍nói rằng người phương Tây văn minh hùng cường vì họ đã dùng chữ
viết theo kiểu phiên âm vừa tiện lợi vừa dễ dàng vì cứ đọc lên là hiểu liền nên giáo dục mới được
phổ cập tới mọi tầng lớp nhân dân. Do vậy, một số văn gia và ngôn ngữ gia như Tống Hành 宋 行,
Lương Nhiệm Công 梁 任 公 … đều thẳng tay tuyên bố rằng chữ Hán là tội đồ, do vậy, họ đã chủ
trương cải cách chữ Hán bằng một thứ chữ viết hoàn toàn khác xưa. Người cực lực bài xích văn tự
biểu ý (chữ Hán) là văn gia và cách mạng gia Đàm Tự Đồng (譚嗣同 1865-1898) trong cuốn Nhân
Học đã chủ trương phế bỏ chữ Hán, rồi kể từ đây chữ Hán không còn được coi là quốc túy của
người Hoa nữa. Vào năm 1908, Ngô Trĩ Huy (吳稚暉 1865 – 1953) vừa là nhà ngôn ngữ học, triết
gia, chính trị gia, là một trong “Tứ đại thư pháp gia” của Quốc Dân Đảng, nồi danh vì đã khai sinh
ra phương pháp Chú âm (注音 Zhuyin), song Ông cũng đề nghị bỏ chữ Hán mà thay bằng Quốc tế
ngữ (Esperanto) vì đó là văn tự biểu âm đã dùng mẫu tự La Tinh rất thịnh hành ngang với Anh ngữ.
Cù Thu Bạch (瞿秋白1899 – 1935) là nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã từng nói: “Chữ
Hán đã trở thành thây ma cứng đờ; ngôn ngữ Trung quốc muốn có đời sống văn hóa mới hiện đại
thì phải hoàn toàn bỏ chữ Hán; như vậy mới có thể thực sự phát triển được văn bạch thoại nói và
viết, đồng thời thoát khỏi sự trói buộc của chữ Hán – thứ chữ thực sự là hố phân bẩn thỉu nhất thời
xưa.”
Văn hào Lỗ Tấn (魯迅 1881-1936) đã từng nói: “Chữ Hán là khối u trên cơ thể đại chúng lao khổ
Trung Hoa, nếu không cắt bỏ khối u thì kết quả sẽ chết… Không diệt chữ Hán thì Trung quốc ắt
mất nước.”
Đối với tôi, Hán ngữ rất khó học: nhược điểm duy nhất là người học phải học rất nhiều chữ (từ) mới
có thể hiểu nổi câu văn. Chẳng hạn, trong một câu có 10 từ thì muốn hiểu phải biết ít nhất độ 8 từ
trong đó; rất khác xa với Anh hay Pháp ngữ vì chỉ cần hiểu vài ba từ chính trong câu là ta có thể
đoán được ý nghĩa của câu văn. Nguyên nhân là do cách cấu tạo từ quá rườm rà và không hợp lý:
những danh từ riêng (nhân danh, địa danh…) đều không viết hoa làm người đọc không nhận định
được ngay; ngoài ra, một số nhân danh và địa danh ngày nay lại toàn là những phiên âm từ tiếng
ngoại quốc làm người đọc phải bứt râu vặn óc để hiểu nghĩa. Thí dụ: nhà tình học Kinsey (1894-
1956) được gọi là Kim Tây 金 西 (Jin Xī), triết gia Henri Bergson (1859-1941) được gọi là Bách
Cách Sâm 柏 格 森 (Bǎi Gé Sēn)… Ngoài ra, một số tên Âu dược hoặc hóa chất… cũng được
phiên âm từ tiếng ngoại quốc. Thí dụ: “aspirin” được gọi là 阿 可 匹 林 “a khả thất lâm” (a kě
pǐlín), “hormone” được gọi là 荷 你 蒙 “hà nhĩ mông” (hè nǐ mēng)… làm khó khăn cho độc giả…
Trong khi đó thì Anh ngữ, Pháp ngữ… đã viết hoa những nhân danh và địa danh, do vậy, khi đọc
tới thì chúng ta có thể biết ngay những chữ này có công dụng làm chủ từ, túc từ hay bổ túc từ…
trong câu và chúng ta không cần phải tra từ điển nữa. Do những lý do nêu trên, ngôn ngữ chính thức
thứ hai sau tiếng mẹ đẻ vẫn phải là Anh ngữ. Tiểu thuyết gia khoa học viễn tưởng Bruce Sterling đã
từng nói rằng “không một ai trên hành tinh này được quyền sở hữu Anh ngữ. Tất cả mọi người đều
có thể tham gia vào quá trình hình thành Anh ngữ hoặc bằng cách này hay cách khác để Anh ngữ
ngày càng phát triển thêm. Anh ngữ là một tài sản công cộng mang tính toàn cầu.”
Trở lại vấn đề, với chúng ta thì “chữ Quốc ngữ” (được chế tác bởi Tu sĩ Dòng Tên Francisco de
Pina và Giáo sĩ Alexandre de Rhodes, rồi sau đó được Học giả Petrus Ký bổ túc thêm). còn được

gọi là học ABC, được xếp vào loại “Văn tự biểu âm” (Phonetic script) là thứ văn tự ghép từ những
ký tự phát âm gồm hai dạng: phụ âm (consonant) như ký tự b, c, d, f, đ, h, j, w, z… và nguyên âm
(vowel) như ký tự a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u… Văn tự loại này được xếp vào loại hệ thống ngữ âm vì
mỗi ký tự khi chưa được ghép với nhau đều không mang một ý nghĩa nào cả. Chỉ sau khi được ghép
và nhất là khi được phát âm lên thì chúng ta mới biết được ý nghĩa của từ đó. Đại biểu của loại ngôn
ngữ này là cổ ngữ La Tinh. Cách ghép nguyên âm với phụ âm (hoặc ở trước, sau, giữa…) đều tạo
nên một âm và âm này đã biểu thị một khái niệm vật chất (như cây, cỏ, đồ vật, động vật…), hành
động (như ăn, uống, đi, bay…), hoặc một khái niệm trừu tượng (như yêu, thương, ghét, giận,
hờn…). Đa số những quốc gia nằm trong quỹ đạo của nền văn minh cổ La Mã khi xưa đều dùng 26
(hoặc thêm vài ba chữ cái nữa) chữ cái chính để ghép vần phù hợp với nhu cầu tri thức của dân bản
xứ. Thí dụ, Pháp ngữ có 31 chữ cái, Anh ngữ có 26 chữ cái và sau này Quốc ngữ của Việt Nam lại
có 29 chữ cái…
Ưu điểm của phương pháp này là: dễ học, học nhanh; ngoài ra, khi đã có khả năng đọc (phát âm
được) và đã viết được thì người đó có thể hiểu được nghĩa của từ đó. Thí dụ một cháu bé biết đọc và
viết chữ Quốc ngữ thì liền hiểu ngay ý nghĩa của từ đó, thí dụ chữ “máy điện toán, nhà in, khách
sạn…” Tương tự như thế với những ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Pháp… Nếu người ngoại quốc
không hiểu, hoặc em bé Việt không hiểu ý nghĩa của từ đó thì có thể tra cứu trong từ điển và sau đó
cũng có thể hiểu được. Tóm lại, đối với những văn tự thuộc loại này, khi nào mà ta đọc được một từ
(chữ) nào thì lập tức ta có thể hiểu liền ngay nghĩa của từ (chữ) đó.
Tóm lại, chữ Quốc ngữ đã trở thành ngôn ngữ chính thức của Việt Nam, là công cụ bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc. phổ biến tri thức, nâng cao dân trí, khai phóng tư tưởng, đóng góp nhiều hơn
cho hành trình văn hóa – giáo dục của đất nước; ngoài ra, nó còn là cây cầu nối Việt Nam với thế
giới bên ngoài để chuyển đổi và canh tân văn hóa…. Học giả Phạm Quỳnh đã từng nói một câu bất
hủ: “Tiếng ta còn thì nước ta còn.” Lý do Học giả đã nói câu trên vì Người nhận thấy người Tàu đã
đồng hóa dân Mông Cổ, Mãn Thanh mà không sao đồng hóa được dân tộc ta dù nước ta đã từng bị
Bắc thuộc cả ngàn năm chỉ vì dân ta đã Việt hóa Hán ngữ bằng cách đọc Hán tự theo âm Hán Việt.
Với câu đầu trong sách Đại Học 大学之道, 在明明德, 在亲民, 在止于至善 thì người Hoa phải đọc
theo giọng Quan thoại/Bắc Kinh là: “Dà xué zhī dào, zài mín míng dé, zài qīn mín, zài zhǐ yú zhì
shàn.” Song người Việt đã đọc theo âm Hán Việt là: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân
dân, tại chỉ vu chí thiện.” Tôi tạm dịch như sau: Đường lối của Đại học là phải làm sáng tỏ đức
sáng, là phải gần gũi thân thiết với dân chúng, làm tới khi đạt tới tình trạng chí thiện.”
2. Cái sai là viết hoa chữ “quốc”
Chữ “quốc” 國 / 国 (Pin yin là “guó”) chỉ có nghĩa là quốc gia, đất nước, là danh từ chung phải viết
thường, không hoa (lower case) mà tiếng Anh là “country” hay “land,” không thể viết HOA, cũng
như Anh ngữ với chữ Finland, Holland, Netherlands, New Zealand, Poland, Swaziland,
Switzerland, Thailand.
Quy luật viết HOA tên quốc gia như sau:
Tên một quốc gia chỉ có 1 chữ duy nhất (word) thì ký tự đầu phải viết “hoa” (uppercase/capital
letter), thí dụ: Pháp, Mỹ, Lào, Mên; trong khi chữ thứ hai là “quốc” thì phải viết chữ thường (lower
case letter) tức chữ KHÔNG HOA, thí dụ: Trung quốc, Hàn quốc, Pháp quốc, Đức quốc, Thái quốc,
Bỉ quốc… Đây là lỗi sơ đẳng mà gần như báo giới đều mắc phải.

Tên quốc gia có 2 hay 3 chữ trở lên thì tất cả những chữ đó đều phải viết hoa ở ký tự đầu, thí dụ:
Việt Nam, Trung Hoa, Đài Loan, Hoa Kỳ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý Đại
Lợi…
Xưa kia, tên quốc gia có 2 hay 3 chữ trở lên thì trước năm 1975 người ta có lệ viết hoa những ký tự
đầu và có dấu gạch nối, thí dụ: Hà-Lan, Thụy-Sĩ, Tây-Ban-Nha… như tác giả Nguyễn Tài Ngọc đã
thể hiện trong nhiều bài viết của mình như: Trang Nguyễn Tài Ngọc; saigonocean.com
https://saigonocean.com › trangNTN – Văn • Thơ Vui • Hình Ảnh • You Tube • Tuyển Tập "Xin Em
Tấm Hình". Ghi Chú: Cấm Trích, In, Đăng Tải Trên Website, Internet, Báo Chí .. Người Việt nói
tiếng Anh quên tiếng Việt – saigonocean.com – https://saigonocean.com › NguyenTaiNgoc › van245
http://saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/trangNTN.htm. Tôi đọc một bài viết ở Việt Nam nói
về sinh viên trẻ sau khi đi du học ở ngoại quốc vài năm về Việt
Chú thích
1. Việt ngữ là 1 trong 23 ngôn ngữ chính thức
Bùi Quang Trị đã viết như sau: “Chữ Quốc ngữ được công nhận là 1 trong 23 ngôn ngữ chính thức
trên thế giới. Đó là điều mà hàng trăm dân tộc khác có nằm mơ cũng chưa thấy (kể cả người Thái
Lan). Nên nhớ trước đây người Nhật đã có ý định Latinh hóa tiếng Nhật nhưng đã sớm từ bỏ ý định
này và nhất là ông Mao Trạch Đông đã thất bại thảm hại với tư tưởng bành trướng chữ Hán và
tiếng Hán của mình bằng các ký âm Latinh. Tất cả mọi âm mưu phủ nhận chữ Quốc ngữ dưới mọi
chiêu bài chính là phản quốc, chống lại dân tộc. Hiện nay trên thế giới người ta thống kê có ít nhất
7.102 ngôn ngữ được biết đến, trong đó có 23 ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của cộng đồng có hơn 50
triệu người dùng. Có 4,1 tỉ người dùng 23 ngôn ngữ này. Tiếng Việt Nam may mắn là một trong số
đó (không thấy tiếng Thái Lan). Trên bản đồ, mỗi ngôn ngữ được đặt trong các đường viền đen và
được ghi chú số lượng người bản ngữ (tính bằng triệu) theo quốc gia. Màu sắc của các quốc gia này
cho thấy ngôn ngữ đã bén rễ như thế nào ở nhiều khu vực khác nhau. Là người Việt chúng ta nên
biết ơn những người đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ để ngày nay tiếng Việt còn hiện diện trên bản đồ
thế giới, không như người Quảng Đông (người Mân Việt) với hơn 62,2 triệu người mà phải sử dụng
chữ Hán và bị đồng hóa.”
2. Danh sách 30 ngôn ngữ phổ biến nhất
Theo tạp chí Ethnologue (2020) của tổ chức SIL International thì dưới đây là danh sách 30 ngôn
ngữ phổ biến nhất (tính cả người sử dụng là ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc ngoại ngữ):
1.Tiếng Anh (1.268.000.000) – 2.Tiếng Trung quốc (Quan Thoại)1.120.000.000.- 3.Tiếng Hindi
637.000.000. – 4. Tiếng Tây Ban Nha (538.000.000). – 5. Tiếng Pháp (277.000.000). – 6.Tiếng Ả
Rập (274.000.000). – 7.Tiếng Bengal (265.000.000). – 8.Tiếng Nga (258.000.000). – 9.Tiếng Bồ
Đào Nha (252.000.000). – 10.Tiếng Indonesia (199.000.000). – 11.Tiếng Urdu (171.000.000).
12.Tiếng Đức (132.000.000). – 13. Tiếng Nhật (126.000.000). – 14. Tiếng Swahili (99.000.000). –
15. Tiếng Marathi (95.000.000). – 16. Tiếng Telugu (93.000.000). – 17. Tiếng Thổ Nhĩ Kì
(85.000.000). – 18. Tiếng Quảng Đông/Trung quốc (85.000.000). – 19. Tiếng Tamil (84.000.000).
– 20. Tiếng Punjab_Tây (83.000.000). – 21.Tiếng Ngô/Trung quốc (82.000.000). – 22. Tiếng Hàn
(79.000.000). – 23. Tiếng Việt (77.000.000). – 24. Tiếng Hausa (73.000.000). – 25. Tiếng Java
(68.000.000). – 26. Tiếng Ả Rập_Ai Cập (67.800.000).- 27. Tiếng Italia (67.700.000). – 28. Tiếng
Gujarat (61.000.000).- 29. Tiếng Thái (61.000.000).- 30. Tiếng Amhara (57.000.000).
3. Chú âm

Chú âm (注音 Zhuyin) là hệ thống ký hiệu âm thanh được dùng để ghi lại cách phát âm của những
Hán tự theo giọng đọc Quan thoại (Bắc Kinh) của Trung Hoa, giống như cách mà chúng ta đã phiên
âm Pháp, Anh ngữ khi mới bắt đầu nhập môn ngoại ngữ này bằng cách viết chữ Quốc ngữ ở bên
cạnh, thí dụ chữ Pháp “manger” thì ta phiên âm là “măng giê,” chữ Anh “to eat” được phiên âm là
“thu ít.” Chú âm là môn học bắt buộc được giảng dạy trong nhà trường trên quốc đảo Đài Loan vì
bất kỳ ấn phẩm Hán ngữ nào tại Đài Loan thì tất cả những chữ Hán trong ấn phẩm cũng in thêm ở
bên cạnh ký hiệu Chú âm, do vậy, chỉ có chừng 3% người Đài Loan mù chữ Hán. Phương pháp Chú
âm giúp người xứ Đài dễ dàng gõ được chữ Hán vào máy vi tính vì bàn phím vật lý (physical
keyboard) quốc tế QWERTY có in một số phù hiệu Chú âm; ngoài ra bàn phím ảo (virtual
keyboard) trong những Smartphones, Tablets và iPads cũng có ký hiệu Chú âm nếu người dùng cài
đặt app Gboard có trong Play Store và App Store.

Tài liệu tham khảo
– Người Trung Quốc đánh giá chữ Hán như thế nào? (Tiến sĩ Nguyễn Hải Hoành)
– Người sáng tạo chữ Quốc ngữ và Lịch sử tiếng Việt (Nguyễn Tài Ngọc đăng trong
http://saigonocean.com/index.php/en)
– Vô văn hóa (Nguyễn Tài Ngọc trong http://tvvn.org/vo-van-hoa-nguyen-tai-ngoc)
– Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt của Cao Xuân Hạo (nhà xuất bản Trẻ, 2001
– Văn tự biểu ý & Văn tự biểu âm (P. Kim Long đăng trong http://kysucongnghe.net)
– Có ngữ pháp tiếng Việt không? (P. Kim Long đăng trong http://ww.kysucongnghe.net)
P. Kim Long
Email: pklong9@gmail.com

Cảm nghĩ của bạn?
0Tuyệt vời0Tệ0Vui vẻ0Buồn
Chùa Phật học Xá Lợi

Chịu trách nhiệm xuất bản: Hòa Thượng Thích Đồng Bổn

Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. HCM

Thời gian mở cửa

Thứ Hai - Chủ nhật
Sáng: 8:00 - 11:00
Chiều: 14:00 - 19:00

Theo dõi chúng tôi