MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO Ở THANH HÓA THẾ KỶ XIX
(QUA MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN)
TS. ĐINH VĂN VIỄN
Mộc bản triều Nguyễn là tài liệu quý giá, phản ánh hoạt động của triều Nguyễn. Mặc dù tư liệu mộc bản triều Nguyễn liên quan đến Phật giáo ở Thanh Hóa không nhiều nhưng qua đó đã cho thấy triều Nguyễn có nhiều ưu ái với Phật giáo, nhất là những ngôi chùa nhà nước, chùa có liên quan đến vua, người thuộc dòng dõi nhà vua. Tư liệu Mộc bản về chùa Khánh Quang ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa là một điển hình cho chính sách ưu ái của triều Nguyễn đối với Phật giáo.
Khái quát về chính sách của triều Nguyễn đối với Phật giáo
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua hiệu là Gia Long, đóng đô tại Phú Xuân lập nên triều Nguyễn kéo dài từ 1802-1945. Dưới thời Nguyễn, Nho giáo tiếp tục được triều đình lấy làm nền tảng tư tưởng chính thống. Ở những giai đoạn khác nhau, mỗi vị vua của triều Nguyễn có những khác biệt nhất định trong chính sách với Phật giáo (Gia Long, Tự Đức có phần nghiêm ngặt, khắt khe hơn) nhưng cơ bản đều có những tương đồng, một mặt tăng cường sự quản lý nhưng mặt khác cũng giành nhiều sự ưu ái với tôn giáo này.
Đối với nhà sư
Sau khi thành lập vương triều, một mặt, vua Gia Long đưa việc điều hành đất nước vào quy củ, mặt khác vua thực hiện chính sách “tăng cường quản lý số sư tăng, bắt họ tham gia các công việc xã hội”1.
Vua Gia Long quy định rõ việc Lý trưởng phải kê khai về sư trong địa bàn mình quản lý: “Sư sãi có kẻ chân tu thì Lý trưởng sở tại phải khai rõ tính danh, quán chỉ đem nộp ở quan trấn để biết rõ số”2. Ở triều đình thì “sai các đình thần xét hết các chùa trong hạt, từ hòa thượng cho đến đạo đồng phải ghi hết số người vào sổ để dâng”3. Nhà vua quy định rõ, sư phải là bậc “chân tu”. Và “sai bộ Lại truyền bảo rằng: Phàm tăng đồ tuổi từ 50 trở lên thì vẫn miễn lao dịch, chưa đến 50 thì phải chịu lao dịch như dân. Kẻ nào dám trốn tránh thì bắt tội”4.
Lệ cấp độ điệp cũng là một ưu ai nhưng cũng là một cách để quản lý nhà sư. “Lâu nay tăng sĩ đến kinh đô, Bộ phải xét ai là người chơn tu, giữ đúng giới luật, am tường khoa phạm, thời cấp một độ điệp để được yên tâm tu trì, hầu chứng đạo thiền, còn như binh nhiêu, thuế thân hết thảy đều tha hết. Nếu sau khi nhận điệp rồi mà nợ trần chưa dứt sạch, nghiệp chướng vẫn còn, có tỳ tích xấu, các quan lại hay dân quân ta bắt được, giải ngay cho quan địa phương chiếu luật trừng trị, bắt phải về tục, thâu lại độ điệp để Bộ tiêu hủy”5.
Năm 1813, vua Gia Long cho ban hành bộ Hoàng Việt luật lệ, trong đó có các quy định: “Nếu tăng đạo không được cấp độ điệp, tự ý cạo tóc thì phạt 100 trượng, nếu do gia trưởng thì gia trưởng phải chịu tội, nếu do trụ trì ở tự quan và thầy dạy riêng độ thì đồng tội, buộc hồi tục, vào sổ đương sai”6. Các vua Minh Mạng và Thiệu Trị đều quan tâm tổ chức sát hạch tăng sĩ để cấp độ điệp. Các nhà sư muốn được cấp độ điệp phải vân tập đến kinh đô, được Bộ Lễ sát hạch và ghi nhận là bậc chơn tu, giữ gìn giới luật, am hiểu Phật pháp. Sau khi nhận được độ điệp, tăng sĩ được tự do hành đạo, được miễn các thứ thuế và lao dịch, cử làm Tăng cang, trụ trì. Nhưng nếu tăng sĩ không chuyên tâm trì giới, phạm tội sẽ bị triều đình tịch thu độ điệp đã cấp, buộc phải hoàn tục.
Cùng với việc được cấp độ điệp, các tăng sĩ còn được triều đình ban giới đao. Đó là “con dao nhỏ hình bán nguyệt dùng để cắt áo, cạo tóc, cắt móng tay, là 1 trong 18 vật thường dùng của tì kheo”7. Ngoài ra, giới đao còn có hàm ý là để cắt hết mọi dục vọng mà an tâm trì giáo.
Triều Nguyễn quy định về đạo đức và lối sống của tăng sĩ. Hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị rất chú ý đến đạo đức, lối sống của tu sĩ Phật giáo. Họ không chỉ thông hiểu Phật pháp, mà còn phải là những người có phẩm hạnh hơn người, có lối sống thanh bạch, giản dị, chấp nhận từ bỏ những ham muốn trần tục để làm gương cho người đời, mới cảm hóa được giáo chúng. Trong Hoàng Việt luật lệ có hẳn những điều quy định nghiêm ngặt về lối sống của các tăng sĩ, “chỉ cho phép dùng lụa thô, vải, không được dùng lụa là thứ láng mịn đẹp, thêu bông hoa. Ai trái lệnh phạt 50 roi, buộc hồi tục, y phục gom về nhà quan. Cà sa, đạo phục thì không ở trong luật lệ này”8.
Triều Nguyễn còn quy định nhà sư cũng phải giữ gìn đạo đức, kính trọng, thờ cúng tổ tiên, cha mẹ. “Tăng ni, đạo sĩ, nữ quan đều ra lệnh họ phải cúng tế cha mẹ, tổ tiên và thứ lớp để tang… làm giống như bao nhiêu người. Ai trái lệnh, phạt 100 trượng, buộc hồi tục”9.
Nhà sư phải giữ nghiêm giới luật. Nếu “tăng đạo quan, tăng nhân, đạo sĩ phạm vào kĩ nữ, rượu thịt thì đều phạt trăm trượng, trả về làm dân”. Nếu “phàm tăng, đạo cưới thê thiếp thì phạt 80 trượng, hồi tục…”10.
Đồng thời, cũng quy định trách nhiệm Trụ trì phải quản lý sư dưới quyền. “Trụ trì chùa chiền biết mà không báo lên thì cùng tội, liên lụy vì người, không buộc hồi tục” 11.
Đối với việc xây dựng, trùng tu chùa
Năm 1804, vua Gia Long đã ban Chỉ dụ: “Gần đây có kẻ sùng phụng đạo Phật xây dựng chùa chiền quá cao, lầu gác rất là tráng lệ, đúc chuông, tô tượng rất đỗi trang hoàng, cùng là làm đàn chay, mở hội, phí tổn về cúng Phật, nuôi sư không thể chép hết, để cầu phúc báo viển vông, đến nỗi tiêu hao máu mỡ. Vậy từ nay về sau chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, còn làm chùa mới, tô tượng, đúc chuông, đàn chay, hội chùa – hết thảy đều cấm”12.
Tuy nhiên đối lễ Phật giáo vẫn được triều Nguyễn cho phép nhưng chỉ được tổ chức trong thời gian nhất định và cấm việc tổ chức các trò chơi… Việc đọc sớ văn, biểu văn cũng phải tuân theo quy định.
Hoàng Việt luật lệ ghi rõ: “Nếu Tăng, Đạo tiêu trai thiết liêu (đàn cầu nguyện) mà mạo tấu thanh điệu biểu văn và cấu trừ hỏa hoạn, thì tội cho hồi tục. Nặng là ở chỗ mạo tấu, nếu tiêu trai thiết đàn cầu nguyện mà không mạo tấu, thanh từ biểu văn thì không cấm”13.
Dưới thời Gia Long, nhà vua đã quy định “lập đàn chay, hội chùa nhất thiết cấm hết”14.
Thời vua Minh Mạng có điều chỉnh: “Phàm dân xã nào đầu năm cúng tế, vào đám hát xướng, chỉ cho một ngày một đêm. Đến khi tế thì cho đánh chuông trống để làm lễ, còn các trò chơi, hết thảy đều cấm cả”15.
Thời vua Tự Đức lại quy định chặt chẽ: “Đàn chay, hội thuyết pháp hết thảy đều cấm cả”16.
Triều Nguyễn dành nhiều sự ưu ái đối với Phật giáo
Tuy nhiên, trong thực tế, các vua triều Nguyễn vẫn dành nhiều ưu ái đối với Phật giáo.
Triều đình phong tăng cang, cấp lương cho các nhà sư ở chùa công, quốc tự. Lệ phân cấp cụ thể như sau: “Phàm tăng cang ở đền chùa của nhà nước, mỗi người tháng cấp cho 3 quan tiền, 1 phương gạo trắng, tăng chúng mỗi người 1 quan tiền, 1 phương gạo trắng, đạo đồng mỗi người 6 tiền, 1 phương gạo”17.
Thời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đều có quy định về việc chi cấp tiền, gạo cho các sư: Chùa Thiên Mụ: Đời vua Gia Long có quy định cấp cho 21 tăng đạo của chùa mỗi người mỗi tháng được 1 phương gạo. Đến đời Minh Mệnh lại đổi lệ cấp cho mỗi người mỗi tháng 60 quan tiền, 55 phương gạo, 5 phương gạo trắng, 6 thưng muối; Chùa Long Quang: Mỗi tháng cấp tiền 15 quan, gạo 21 phương; Chùa Thánh Duyên: Sư trưởng mỗi tháng được 2 quan tiền, 1 phương gạo trắng, các sư nam và sư nữ, mỗi người mỗi tháng được 1 quan tiền, 1 phương gạo, chú tiểu mỗi tháng được 5 tiền và 15 đấu gạo; Chùa Giác Hoàng: Sư trưởng mỗi tháng được cấp 3 quan tiền, 1 phương gạo trắng, các sư mỗi người mỗi tháng đều được 1 quan tiền và 1 phương gạo; Chùa Diệu Đế: Mỗi tháng cấp cho sư trưởng 2 quan tiền, 1 phương gạo trắng, các sư mỗi người mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo.
Thời Tự Đức quy định rõ hơn về số lượng tăng ni, và phân chia bình quân “trợ cấp” cho tăng ni, sư sãi tại các chùa quốc tự. Năm thứ 3 (1850), nhà vua xem xét số lượng sư tăng sư ở các chùa và gia giảm cho phù hợp với công việc. Cụ thể: Chùa Thiên Mụ hiện số Tăng cang là 1 người, sư là 48 người. Chùa Diệu Đế hiện số Tăng cang là 1 người, sư trưởng là 1 người, sư là 20 người. Chùa Giác Hoàng hiện có sư trưởng là 1 người, sư là 15 người. Chùa Linh Hựu hiện số sư trưởng là 1 người, sư là 10 người. Chùa Thánh Duyên hiện số sư trưởng là 1 người, sư là 9 người, 2 chú tiểu. Tất cả các chùa trên này, Tăng cang mỗi người mỗi tháng 3 quan tiền, 1 phương gạo trắng; sư trưởng mỗi người mỗi tháng 2 quan tiền, 1 phương gạo trắng; các sư mỗi người mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo; đạo đồng mỗi người mỗi tháng 6 tiền, 1 phương gạo. Chùa Long Quang hiện tại có: 1 sư trưởng, 20 sư, 3 chú tiểu. Tất cả số người ấy mỗi tháng 15 quan tiền, 1 phương gạo trắng, 20 phương lương thực.
Ngoài ra, các chùa còn được cấp Sái phu chuyên đảm trách việc bảo vệ, quét dọn và các công việc khác trong chùa. Những người này được miễn việc binh, miễn sai dịch.
Các triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều có tổ chức sát hạch để cấp Giới đao, độ điệp, quản lý sư sãi chân tu và chọn ra người tài giỏi am hiểu Phật pháp, đủ đức hạnh để ban chức Tăng cang cai quản các ngôi quốc tự, chùa công do nhà nước xây dựng, bảo hộ.
Tăng cang, trụ trì chùa Sắc tứ do Bộ Lễ và Tôn Nhân phủ phụ trách việc xét chọn. Khi chùa khuyết thiếu Tăng cang sẽ phải báo lên Bộ Lễ để xin chỉ nhà vua sát hạch, phê chuẩn và cấp cho Sắc chỉ. Năm 1815, vua Gia Long mở đầu việc phong Tăng cang cho sư Mật Hoằng. Các đời vua Nguyễn sau đó đều duy trì việc làm này. Triều đình có quy định về ban cấp lương, pháp phục cho Tăng cang, trú trì…“Tăng cang: Được cấp lương bổng theo chánh thất phẩm – 2 bộ lễ phục: Gồm đại y ca-sa may bằng lụa bát ty (dệt 8 sợi), áo hậu may kiểu bá nạp 5 màu, mão Quan âm, mão Tỳ-lô thêu 5 vị Phật, giày dép, thiền cụ. Đặc biệt là trường hợp hoàng gia cúng dường y ca-sa chế tạo bằng gấm màu vàng, áo hậu bằng gấm 5 màu để biệt cúng cho các vị Trưởng lão Hòa thượng bổn sư”18.
Về sau, thì Tăng cang còn được phong cho các sư ở địa phương. “Trong số các sư ở chùa trong kinh và ngoài các tỉnh đều chọn cử làm tự trưởng hoặc tăng cang. Nếu vị nào tinh tấn tu hành xét có công đức thực sự, được quan địa phương xét cử, tăng đồ suy tôn là hết sức đặc sắc mới được chuẩn công nhận cử làm tăng cang”19.
Ban cấp kinh phí xây dựng, trùng tu các chùa của nhà nước (do vua, quan lại hoặc người trong hoàng tộc lập ra, phục vụ nhu cầu tâm linh, tế lễ của tầng lớp trên; được nhà nước chi cấp hoàn toàn, có đội ngũ tăng cang, sư trụ trì tùy theo quy mô). Việc tu bổ, tôn tạo ở các ngôi chùa này đều do các cơ quan của triều đình trực tiếp đảm nhận. Nhà vua thường xuyên theo dõi, đôn đốc công việc.
Thời Gia Long, văn năm 1803, nhà vua xuống dụ cấp tự điền, tự đinh cho chùa Thiên Trường ở phủ Gia Định: 3 thửa ruộng tam bảo, thuộc các hạng 1, 2, 3, cho miễn tiền thóc tô thuế; lại cho 30 người ở trong chùa được trừ các việc thuế thân, cho sư trụ trì thờ cúng ở chùa ấy, để ơn nước được lâu dài. Năm 1804, vua lệnh cấp cho tháp Phổ Đồng, chùa Quốc Ân nguyên có ruộng đất tư là 9 mẫu 1 sào 2 thước ở xã Thần Phù, huyện Phú Vang, tỉnh Quảng Đức làm ruộng tam bảo, lãnh canh chịu thuế.
Đến thời vua Minh Mạng càng quan tâm nhiều hơn. Năm 1824, vua lệnh chi cấp 100 lạng bạc, gỗ, vật liệu cần thiết, đồ vật, đồ thờ … và cho dựng chùa Phúc Long ở Quảng Trị, cũng đã đặc cách chuẩn cho 3 phường An Nha, An Hướng, An Xuân một số ruộng đất trang, ruộng quan điền làm ruộng tam bảo. Cụ thể: Trích lấy ở phường An Nha 30 mẫu, phường An Hướng 20 mẫu, phường An Xuân 15 mẫu, tất cả ruộng đất là 65 mẫu, được miễn trừ thuế khóa dồn làm chi phí đèn hương, giao cho 3 phường ấy đời đời giữ việc thờ tự cho được lâu dài.
Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), chuẩn lời tâu của phủ Thừa Thiên thu mua ruộng tư ở xã Đức Bưu, huyện Hương Trà 7 mẫu 4 sào, đặt làm ruộng chùa, tháp Thúy Vân, Linh Thái, giao cho người trụ trì ở chùa ấy nhận lĩnh cày cấy để cung chi phí hương đèn ở chùa tháp ấy20. Ở tỉnh Quảng Ngãi các chùa Diệu Giác, Phổ Tế, Long Hưng được vua Minh Mạng ban hiệu chùa với hai chữ “Sắc Tứ” tức là được vua công nhận. Tại Gia Định, vua Minh Mạng lưu ý trùng tu và ban biển “Sắc Tứ” cho các chùa Thiên Trường, Từ Ân, Pháp Vũ.
Đối với chùa tháp ở các tỉnh thành, nhà nước cấp ngân lượng cho các tỉnh trang nghiêm chùa cảnh: Năm 1821, khi qua tỉnh Quảng Bình, vua Minh Mạng cho đổi tên chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy thành Hoằng Phúc tự; hai năm sau (1823) nhà vua xuất ngân khố 100 lạng bạc để tái thiết làm đẹp thêm chùa này. Cũng năm 1821, khi đến Hà Nội, Minh Mạng cho đổi tên chùa Hoằng Ân ra là Sùng Ân và cho lệnh trùng tu đồng thời vua ban cho 20 lạng bạc để trùng tu chùa Trấn Bắc. Trên đường hồi kinh, khi qua tỉnh Ninh Bình, nhà vua đã dừng thuyền lên thăm chùa Cổ Am ở cửa động Nham Sơn, núi Địch Lộng, huyện Gia Viễn (nay gọi là chùa Địch Lộng) và phong tặng là “Nam thiên đệ tam động”. Năm sau (1822), vua cúng vào chùa 4 pho tượng Phật bằng đồng thếp vàng và 50 lạng bạc để trùng tu chùa.
Đối với một số ngôi chùa công ở xa kinh đô, triều đình trích một phần ruộng đất công làng xã làm ruộng thờ cho nhà chùa. Phần ruộng đất này, đều được miễn thuế và giao cho chùa hoặc dân làng sở tại quản lý lấy hoa lợi chi phí lo việc thờ tự. Năm Minh Mạng thứ tư (1823), “Lại chỉ dụ; xã Hương Ly, huyện Duy Xuyên ruộng thờ cũ 2 mẫu, 2 xã Trà Kiệu Đông, Trà Kiệu Tây ruộng thờ cũ 2 mẫu và đất trồng dâu 8 sào 12 thước, chuẩn chiểu theo như mẫu ruộng thờ ở trại Dưỡng Mông, đều miễn thuế cho tất cả, cho Nguyễn Trường Phương, Đoàn Công Lễ chiểu nhận vâng giữ để cung nhu phí đèn hương chùa Vĩnh An”21.
Việc tổ chức các nghi lễ Phật giáo
Mặc dù cấm mở trai đàn, tổ chức lễ hội, nhưng Gia Long lại hạ lệnh mở trai đàn bạt độ cho tướng sĩ trận vong theo nghi thức Phật giáo và làm tại quốc tự (chùa Thiên Mụ ở Huế).
Các nghi lễ thường xuyên được các quốc tự tiến hành. Từ vua Gia Long cho đến vua Tự Đức đã có gần 30 lễ trai đàn được triều đình tổ chức ở cả nước, trong đó nhiều nhất là vua Minh Mạng cho tổ chức 17 lần. Các nghi lễ này được chính các quan đại thần chuẩn bị rất chu đáo. Các sư khi được triệu về kinh đô để thực hiện nghi lễ thì đều được triều đình cấp tiền. Ví dụ, như trường hợp sư chùa Huệ Quang và 36 người vào năm 1841 khi được triệu về chùa Thiên Mụ để thực hiện trai đàn đã được “cấp tiền mỗi người 4 quan làm lộ phí”22.
Ngoài ngày mồng một và rằm, các chùa còn có nhiều dịp lễ như Phật Đản, Vu Lan, các ngày tiết Chính đán, tiết Thánh Thọ, Vạn Thọ, Đoan Dương, vía các Bồ tát… Nghi thức thông thường là tập trung chư tăng, Phật tử rồi dâng cúng lễ phẩm lên bàn thờ chư Phật, thiết đàn tụng kinh cầu nguyện, tổ chức phóng sinh, thả hoa đăng trên sông…
Một số sự kiện Phật giáo Thanh Hóa thời Nguyễn qua Mộc bản triều Nguyễn
Dưới triều Nguyễn, Thanh Hóa là tỉnh ở xa kinh đô nhưng vốn là đất phát của triều Nguyễn nên được các nhà vua rất coi trọng.
Đối với Phật giáo ở Thanh Hóa cũng giống như các địa phương khác, chịu sự ảnh hưởng của các chính sách của triều đình.
Nhà sư, các chùa ở vùng miền núi Thanh Hóa được triều Nguyễn miễn thuế thân.
Mộc bản ngày 23 tháng 8 năm Thành Thái thứ 10 (1898) có ghi lại thượng dụ: “Cho các sắc thân vùng thượng du Thanh Hóa như người Lào, Thái, Mèo, Kha, Dao… sư ở các chùa cho đến người tàn tật đều được miễn thuế thân và công sưu”23.
Nhiều chùa ở Thanh Hóa đã được các quan triều Nguyễn đứng ra xây dựng, trùng tu. Đại Nam nhất thống chí ghi chép lại việc một số quan lại triều Nguyễn xây dựng, trùng tu chùa ở Thanh Hóa như chùa Thanh Lương (thuộc thôn Hương Bào Nội, huyện Đông Sơn) được Kinh lược Đại sứ lĩnh Tổng đốc An – Tĩnh, kiêm coi đạo Thanh Hóa Nguyễn Đăng Giai trùng tu vào năm Tự Đức thứ 3 (1850) 24. Hay chùa Thanh Thọ (ở ngoài cửa Đông tỉnh thành), “khoảng đời Tự Đức, Tổng đốc Tôn Thất Dao sửa lại. Cầu đảo thường linh ứng” 25.
Tam quan chùa Khánh Quang
(xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Đối với các chùa nhà nước (quốc tự), các chùa có liên quan đến nhà Nguyễn đều nhận được sự ưu ái của triều đình. Trường hợp ngôi chùa Khánh Quang là một điển hình cho sự ưu ái đó của triều Nguyễn.
Mộc bản ngày 12 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 6 (1937) đã ghi lại về chùa Khánh Quang và việc khảo cứu, xây lại chùa Khánh Quang của triều Nguyễn như sau: “Phủ Tôn nhân trình: Nay tiếp phả trưởng của Đồng Tôn tương tế phả và các quý chức trong hội đồng trị sự trình nói: Theo hậu bổ Ưng Tiến trình rằng viên ấy trước vốn làm miếu chức tỉnh Thanh Hóa ở tại xã Trạch Lâm lệ nhập vào xứ của quý hương tỉnh ấy có một ngôi chùa cổ hiện còn bia tháp tên là chùa Khánh Quang do Trịnh Thị Ngọc Trúc, hoàng thái hậu triều Lê xây dựng”26. Và mộc bản cũng ghi rõ rằng “Phụng chiếu Tôn phả thì Ngọc Bửu là trưởng nữ của Triệu miếu, Ngọc Tú là con gái thứ hai của Thái miếu. Kê cứu sử họ Trịnh thì Ngọc Trúc hoàng thái hậu là do Ngọc Tú sinh ra, lúc bấy giờ có sắc xây dựng chùa này thờ Phật và ký thờ hai vị này vào xứ quý hương và có đặt ruộng thờ giao xã ấy phụng thủ”27.
Qua đoạn trích từ mộc bản trên đây cho thấy:
Chùa Khánh Quang (còn gọi là chùa Trạch Lâm), hiện nay tọa lạc ở xã Trạch Lâm, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay là xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đại Nam nhất thống chí chép về chùa Khánh Quang như sau: “Chùa Trạch Lâm do Công chúa Ngọc Tú bản triều dựng”28. Từ điển di tích văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thọ (Nxb Văn hóa, Hà Nội năm 2003), ở trang 362 cũng cho rằng chùa này do Nguyễn Thị Ngọc Tú xây dựng: “Chùa Khánh Quang ở xã Trạch Lâm, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa do Chính Phi của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, là Nguyễn Thị Ngọc Tú (1631) xây dựng. Bà là con gái Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng. Sau khi làm nội cung của Trịnh Tráng (1623) bà về thăm quê hương ở huyện Tống Sơn, nhân đó bỏ tiền công đức dựng chùa Khánh Quang. Trong chùa có tượng Vương phi tức là tượng thờ bà. Sau vườn chùa có tháp 3 tầng chưa rõ là tháp thờ vị nào”. Sách Chùa xứ Thanh cũng chép: “Có thể khẳng định rằng chùa Khánh Quang… do bà Chính phi của Thanh Đô vương Trịnh Tráng là Nguyễn Thị Ngọc Tú bỏ tiền của xây dựng vào thế kỷ XVII”29. Lịch sử Phật giáo Thanh Hóa cũng chép: “Chùa Khánh Quang… do Trịnh Thị Ngọc Trúc, Hoàng Thái hậu của triều Lê xây dựng”30.
Tuy nhiên, từ nội dung mộc bản trên đây, thì chứng tỏ chùa Khánh Quang vốn được Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và mẹ là Nguyễn Thị Ngọc Tú xây dựng.
Mộc bản triều Nguyễn, có một bản thời Bảo Đại (ngày 12 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 6) cũng cho biết một số thông tin về ngôi chùa Khánh Quang thời Bảo Đại khi chưa được xây dựng lại: “Trong chùa có thờ tôn tượng Ngọc Bửu quý nương và kim bài bằng gỗ của Ngọc Tú quý nương” 31.
Tuy nhiên, thời điểm đó, “vì binh lửa cháy hư, ruộng thờ lưu lạc” 32, chùa đã bị hư hỏng nặng, “khói lạnh hương tàn” mặc dù chùa Khánh Quang vốn “đã được liệt vào danh mục khảo cứu của Viện Bác Cổ” 33.
Vì vậy, “xin thiểm phủ chuyển trình lên Bộ Lễ nghị xét cho vào nghi lễ được hưởng thờ tự để úy lạo tiên linh và thêm lòng nhân hậu”34.
Bản mộc bản này cũng chỉ rõ nguyên nhân chùa Khánh Quang được triều Nguyễn cấp kinh phí cho xây lại là vì chùa này vốn do Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và mẹ là Vương phi Nguyễn Thị Ngọc Tú xây dựng. Và “trong chùa có thờ tôn tượng Ngọc Bửu quý nương và kim bài bằng gỗ của Ngọc Tú quý nương. Ngọc Bửu là trưởng nữ của Triệu miếu, Ngọc Tú là con gái thứ hai của Thái miếu”. Triệu Miếu hay còn gọi là Triệu Tổ Miếu là nơi thờ Nguyễn Kim thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, được triều Nguyễn truy tôn miếu hiệu là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế. Thái Miếu là nơi thờ chúa Nguyễn Hoàng, được triều Nguyễn truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế.
Tượng Thiền sư Minh Hành Tại Tại xưa kia tại chùa Khánh Quang
Vì vậy, nên chùa Khánh Quang từ chỗ bị hoang tàn đã được triều Nguyễn bỏ tiền xây dựng lại. Việc xây lại chùa Khánh Quang có lẽ đã được giao cho thự Tổng đốc Thanh Hóa Tôn Thất Tĩnh thực hiện. Đại Nam nhất thống chí chép: “Chùa Trạch Lâm do Công chúa Ngọc Tú bản triều dựng. Sau thự Tổng đốc Thanh Hóa Tôn Thất Tĩnh sửa lại”35. Đồng thời, chùa Khánh Quang còn được nhận những ưu ái “cho nhập vào nghi lễ có ngân sách hằng năm để lo hương khói”36.
Tóm lại, được thành lập trong bối cảnh đầu thế kỷ XIX, sau khi lật đổ vương triều Tây Sơn, các vua Nguyễn đề cao Nho giáo, coi Nho giáo là hệ tư tưởng chính trị chính thống, muốn dùng Nho giáo làm rường cột về tư tưởng cho nền cai trị của mình, nhưng đồng thời các vua triều Nguyễn cũng khuyến khích Phật giáo cũng như các tín ngưỡng truyền thống (thờ cúng tổ tiên, các anh hùng, danh nhân văn hóa của dân tộc…). Ngay từ “vua Gia Long vận dụng tinh thần từ bi của Phật giáo để ổn định và chăm lo cuộc sống người dân”37. Điều này xuất phát từ việc Phật giáo cũng như các tín ngưỡng truyền thống đó đã ăn sâu trong tâm lý, đời sống, phù hợp với truyền thống của dân tộc và triều Nguyễn cũng qua đó muốn cố kết nhân tâm, củng cố cơ sở xã hội cho mình. Điều này, được thể hiện rõ qua sự ưu ái đối với Phật giáo, nhất là các chùa nhà nước.
Mộc bản triều Nguyễn là tài liệu quý giá, phản ánh hoạt động của triều Nguyễn. Mặc dù tư liệu mộc bản triều Nguyễn liên quan đến Phật giáo ở Thanh Hóa không nhiều, nhưng qua đó đã cho thấy triều Nguyễn có nhiều ưu ái với Phật giáo, nhất là những ngôi chùa nhà nước, chùa có liên quan đến vua, người thuộc dòng dõi nhà vua.
1. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.353.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.587.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.371.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.371.
5. Nguyễn Hiền Đức (2002), Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.244.
6. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hữu (1994), Hoàng Việt luật lệ (Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, trang 267.
7. Thích Minh Cảnh (2003), Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 2, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh, tr.1713.
8. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hữu (1994), Hoàng Việt luật lệ (Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.443.
9. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hữu, (1994), Hoàng Việt luật lệ (Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.443.
10. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hữu, (1994), Hoàng Việt luật lệ (Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 915.
11. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hữu (1994), Hoàng Việt luật lệ (Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.443.
12. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, phiên dịch: Nguyễn Ngọc Tỉnh, hiệu đính: Đào Duy Anh, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.586.
13. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hữu (1994), Hoàng Việt luật lệ (Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.412.
14. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, Bản dịch, in lần thứ 2, Nxb.Thuận Hóa, Huế, tr.238.
15. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, Bản dịch, in lần thứ 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.237.
16. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 7, Bản dịch của Viện Sử học, Tái bản lần thứ nhất, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr.198.
17. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, Bản dịch, in lần thứ 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.362.
18. Trần Đình Sơn, Quy định danh vị, lễ phục của Tăng sĩ dưới triều Nguyễn, Báo Giác Ngộ; https://giacngo.vn/quy-dinh-danh-vi-le-phuc-cua-tang-si-duoi-trieu-nguyen-post68505.html
19. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.951.
20. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, bản dịch, in lần thứ 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.97 – tr.103.
21. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, bản dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.369.
22. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.32.
23. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr.32.
24. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập II, người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 344.
25. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập II, người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 344.
26. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.775.
27. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.958-960.
28. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí (tập II), người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.340.
29. GHPG VN tỉnh Thanh Hóa (2016), Chùa xứ Thanh, tập 1, Nxb Thanh Hóa, tr. 219.
30. GHPG VN tỉnh Thanh Hóa (2019), Lịch sử Phật giáo Thanh Hóa, Nxb. Thanh Hóa, tr.397
31. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.958-960.
32. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.958-960.
33. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.958-960.
34. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.958-960.
35. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập II, người dịch: Phạm Trọng Điềm, người hiệu đính: Đào Duy Anh, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.340.
36. Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn – Tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.958-960.
37. Đinh Văn Viễn (2021), Tìm hiểu chính sách của vua Gia Long đối với Phật giáo, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 378, tháng 11 năm 2021, tr.67.