“ĐỜI SỐNG TĂNG ĐOÀN Ở NALANDA (ẤN ĐỘ) VÀO THẾ KỈ VII:
CÂY XỈA/CHÀ RĂNG THEO GHI CHÉP CỦA PHÁP SƯ NGHĨA TỊNH”
NGUYỄN CUNG THÔNG1
Xỉ mộc như là một dụng cụ “đa năng” làm sạch răng
Khoa học hiện đại đã cho thấy là tình trạng sạch sẽ của răng và miệng (oral hygiene – tiếng Anh) có ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người. Ca dao, tục ngữ tiếng Việt cũng đề cao tính chất của hàm răng như “Răng long đầu bạc; Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng; Cái răng cái tóc là gốc con người…”, qua đó ta có thể thấy được phần nào vẻ đẹp (ngoại hình) và sức khỏe toàn diện con người. Trong truyền thống người Việt, chăm sóc răng không đòi hỏi gì nhiều: Từ nhỏ thì dùng tăm, khi lớn thì dùng cau khô, v.v… Các tài liệu cổ của Phật giáo cũng kêu gọi tăng ni cần để ý chăm nom sức khỏe mình, đặc biệt là miệng và răng. Bài viết này, chú trọng đến điều thứ 8 (hay chương 8) của cuốn Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện do Pháp sư Nghĩa Tịnh soạn vào khoảng đầu thập niên 690. Điều 8 có tiêu đề là Triêu tước xỉ mộc 朝嚼齒木 (Sáng sớm phải nhai/chà răng – tạm dịch/NCT). Một số Hán và Phạn tự được ghi lại để tránh trường hợp tối nghĩa và tiện cho người đọc tra cứu thêm khi cần. Các hoạt động giúp sức khoẻ tăng lữ còn được Pháp sư Nghĩa Tịnh ghi chép cẩn thận từ việc đi vệ sinh cá nhân (điều 18) cho đến việc rửa tay vào buổi ăn (điều 5), dùng nước sạch (điều 6 và 7), tắm rửa thân thể cho sạch (điều 20), tập thể dục/đi bộ (điều 23), phương cách trị bệnh tật (điều 27), phân biệt thức ăn sạch hay dơ, không dùng lại đồ ăn thừa (điều 4), v.v… Sau khi biên soạn tác phẩm trên và gửi về nước (Trung Hoa), Ngài trở lại Lạc Dương vào năm 695 và chính Võ Tắc Thiên (bấy giờ đã là hoàng đế Trung Hoa) đích thân ra nghênh tiếp. Tuy là người sau cùng trong 3 nhà du hành nổi tiếng Trung Hoa (cũng là tăng sĩ/dịch giả) đã qua xứ Phật vào thời Trung cổ, nhưng Ngài ở đây ít nhất là 12 năm trong 25 năm lưu lạc ở “nước ngoài” lo học đạo, so với 10 năm của nhà sư Pháp Hiển và 16 năm của nhà sư Huyền Trang. Do đó, các nhận xét và ghi chép của Ngài rất sâu sắc và đáng chú ý.
Pháp sư Nghĩa Tịnh và Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện
Pháp sư Nghĩa Tịnh 義淨, tên tục là Trương Văn Minh 张文明, sinh năm 635 ở Tế Châu (Sơn Đông) và xuất gia năm 14 tuổi. Ngài đã nghe tiếng Thiền sư Pháp Hiển và Huyền Trang hành hương xứ Phật, nên nhất định theo đuổi ý định này để tìm hiểu Phập pháp thấu đáo hơn. Năm 37 tuổi, Ngài mới có cơ hội đi tàu qua Srivijaya (bây giờ là Palembang ở Sumatra, từng là một trung tâm Phật giáo lớn trong vùng Đông Nam Á), ở đây 6 tháng học tiếng Phạn và tiếng Mã Lai, sau đó đi tàu sang Ấn Độ. Sau khi đậu “kì thi nhập học”, Ngài vào chùa2 (tu viện) Nalanda được 12 năm tu học, so với 25 năm sống ở hải ngoại và thăm viếng được hơn 30 quốc gia. Ngài đem về nước khoảng 400 bộ kinh luận tiếng Phạn, cùng khoảng 300 viên ngọc xá lợi. Cho đến cuối đời, vào năm 713, Ngài luôn chăm chú dịch kinh từ tiếng Phạn (được hơn 50 bộ kinh). Một số tác phẩm nổi tiếng của Nghĩa Tịnh là Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Trọng Quy Nam Hải Truyện, Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện, Phạn Ngữ Thiên Tự Văn 梵語千字文 còn gọi là Phạm Đường Thiên Tự Văn, Đường Tự Thiên Man Thánh Ngữ 梵唐千字文, 唐字千鬘聖語 v.v…
Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện gồm 4 quyển và có 40 điều (chương) được coi như là nội quy cho các sa môn (tăng sĩ hay ni cô Phật giáo) phải noi theo cùng với các lý do và phê bình chi tiết của Pháp sư Nghĩa Tịnh.
Phỏng dịch điều 8 – Triêu Tước Xỉ Mộc 朝嚼齒木
Điều 8 – Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện – quyển đệ nhất (tạm dịch/NCT):
Mỗi sáng sa môn3 cần phải nhai, chà răng và cạo lưỡi bằng xỉ mộc, làm vậy như nề nếp hàng ngày4. Rửa tay và súc miêng cho sạch, xong rồi mới chào hỏi nhau. Nếu không thì sẽ đắc tội. Xỉ mộc là cây chà răng, tiếng Phạn là đạn xỉ gia sắt sá: Đạn xỉ nghĩa là răng/ngà, gia sắt giá nghĩa là cái/thanh cây. Xỉ mộc dài 12 chiều ngang ngón tay, không nhỏ hơn 8 chiều ngang ngón tay, lớn khoảng ngón tay út. Nhai một đầu cho mềm rồi dùng đầu này để chà/lau cho sạch miệng. Khi gần một người đáng kính, thì lấy tay trái che miệng nếu đang dùng xỉ mộc. Xong thì bẻ xỉ mộc, uốn cong nó để cạo lưỡi. Hoặc có thể dùng loại bằng đồng hay sắt làm đồ cạo lưỡi, hoặc lấy thanh tre hay gỗ, dẹp như bề mặt ngón út, vọt cho nhọn để xỉa/khều răng và bẻ cong để cạo lưỡi, cẩn thận đừng làm hại (thương tổn) đến miệng. Khi đã dùng xong, thì rửa và vất xỉ mộc ở một nơi vắng vẻ. Thường khi vất bỏ xỉ mộc, hay khi khạc nhổ, thì phải khảy ngón tay 3 lần hay tằng hắng ít nhất 2 lần. Nếu không làm như vậy thì có tội. Nếu ở gần nông trại hay rừng rú, thì thường lấy nhánh cây trách (tạc), cây cát (sắn); nếu ở đồng bằng, thì tùy ý dùng nhánh cây đào, mai, dương liễu làm xỉ mộc – phòng bị cho đủ, đừng để cho thiếu. Ướt5 thì cho người khác, khô thì giữ lấy mà dùng. Sa môn trẻ thì dùng xỉ mộc tự nhiên, nhưng sa môn cao tuổi cần đập nát một đầu cho mềm trước khi dùng. Loại tốt là khi có vị đắng, chát, cay. Loại có đầu xỉa/chà răng mềm như bông gòn là tốt nhất. Rễ lá cây thu hồ6 dùng làm xỉ mộc rất tốt (thu hồ hay thương nhĩ là cây có rễ ăn sâu vào đất 2 tấc xưa7). Xỉ mộc là răng cứng, miệng thơm, giúp tiêu hóa và giải trừ bệnh tim8. Dùng xỉ mộc trong nửa tháng thì chứng hôi miệng sẽ hết, chứng đau răng trong 3 tuần9 thì lành. Cốt yếu là nhai cho kỹ và lau/rửa cho sạch, súc miệng cho nhiều nước, nhổ hết nước miếng/nước súc miệng ra ngoài. Đấy chính là cách thức vậy. Sau đó, uống bằng mũi một sao10 nước, đây là phương pháp để được sống lâu11 của Ngài Long Thọ/Thụ. Nếu không quen uống (nước) bằng mũi như trên, uống bằng miệng cũng tốt. Áp dụng các phương cách trên lâu ngày thì ít bệnh tật. Chất bẩn (uế) ở chân răng tích tụ lâu ngày trở nên cứng, phải cạo cho sạch hết. Lấy nước (nóng) đắng rửa, thì răng sẽ không bị hư suốt đời (chung thân). Đau răng ở đây (Ấn Độ) 12 rất hiếm vì hậu quả tốt lành khi dùng xỉ mộc xỉa/chà răng. Có vấn đề về cách hiểu xỉ mộc cho ra lẽ so với nét nghĩa dương chi (nhánh liễu): Cây liễu ở Ấn Độ rất hiếm dù rằng người dịch thường dùng danh từ dương chi. Thật ra, xỉ mộc của đức Phật không phải là từ cây dương liễu, chính tôi đã quan sát thấy ở chùa Na Lan Đà13. Tôi không cần tin hay nghe người khác nữa, cũng như người nghe14 không phải mất công/lao trí. Tra kinh Niết Bàn tiếng Phạn thấy nói rằng “khi nhai xỉ mộc” thì rõ vậy. Có lúc15 dùng cành liễu nhỏ, 5 hay 6, đều cho vào miệng nhai mà không biết súc/rửa miệng. Hoặc họ còn nuốt nước (trấp) từ xỉ mộc trong miệng để cho hết bệnh, cầu sạch sẽ mà lại trở thành dơ bẩn, muốn khỏi bệnh mà hoá ra mang thêm bệnh. Có phải họ đã biết được điều này hay không? Có giải thích cũng bằng thừa. Tục lệ 5 miền của đất Ấn Độ là nhai xỉ mộc để chà sạch răng, ngay cả đứa bé lên 316 đã được dạy làm điều này. Giáo lý đạo Phật, thường dân ai cũng đã biết lợi ích ra sao. Tôi đã trình bày các điều tốt hay xấu về xỉ mộc, tùy tâm17 (người đọc) mà thực hành hay bác bỏ18.
Bàn thêm về điều 8 “Triêu Tước Xỉ Mộc”
Cây xỉa/chà răng của Sa môn từng được các nhà sư trước thời Nghĩa Tịnh ghi chép lại, tuy rất là sơ sài, nhưng là một trong 18 món cần thiết mà tăng lữ luôn mang theo bên mình. Nên nhắc ở đây là phong tục cổ đại Ấn Độ thường tặng nhau xỉ mộc và nước thơm cùng chúc nhau mạnh khỏe. Lịch sử Phật giáo Trung Hoa kể lại chuyện nhà sư An Thế Cao (sinh khoảng 148 – 180) đến Trung Hoa truyền đạo, là người đầu tiên dịch các kinh Phạn ngữ ra Hán ngữ được biết đến nhiều nhất. Trong cuốn “Phật Thuyết Ôn Thất Tẩy Dục Chúng Tăng Kinh”, Ngài viết “… 六者楊枝 …” (…Lục giả dương chi … tạm dịch/ NCT: Sáu là dùng cây xỉa răng/nhành dương – một trong các hoạt động giữ vệ sinh cho chúng tăng).
Pháp sư Pháp Hiển (337-422) cũng từng ghi lại trải nghiệm về tước dương chỉ trong chuyến hành hương từ Trung Hoa đến Ấn Độ. Trong Phật Quốc Kí (chương 19), Ngài ghi rằng 南門道東佛本在此嚼楊枝刺上中。即生長七尺 (Nam môn đạo đông Phật bổn tại thử tước dương chi thứ thượng trung,tức sinh trường thất xích – tạm dịch/ NCT: Ra khỏi cửa Nam đi về hướng Đông nơi đức Phật từng nhai/ chà răng bằng nhành dương và cắm xuống đất, sau mọc thành cây lên cao đến 7 thước xưa19).
Pháp sư Huyền Trang (602-664) đã từng ghi lại trong cuốn Đại Đường Tây Vực Kí rằng 饌食既訖,嚼楊枝而淨 (Soạn thực kí cật, tước dương chi nhi tịnh… tạm dịch/NCT: Ăn tiệc xong, dùng cây xỉa răng/nhành dương cho sạch).
Ngoài các truyện như trên, được kể lại từ nhân chứng lịch sử trong cuộc (từng trải nghiệm) về tục nhai/chà (đánh) răng (~ tước dương chi HV). Các tài liệu Hán cổ cũng nhắc đến tập tục này như Tùy Thư20/Chân Lạp Truyện 隋書/真臘傳 ghi rằng 每旦澡洗,以楊枝淨齒,讀誦經咒 (Mỗi đán táo tẩy,dĩ dương chi tịnh xỉ,độc tụng kinh chú – tạm dịch/NCT: Mỗi sáng rửa ráy, lấy nhành dương đánh răng, đọc kinh kệ). Nhà sư Cưu Ma La Thập 鳩摩羅什 (344-413), người dịch cuốn Đại Trang Nghiêm Luận Kinh 大莊嚴論經, quyển 10, cũng dùng tước dương chi. Vào thời Nam triều nhà Tống (420-478), các nhà sư Phật Đà Thập (Buddhajīva) và Trúc Đạo Sinh (khoảng 360-434) trong cuốn 彌沙塞部和醢五分律 Di Sa Tắc Bộ Hòa Hải Ngũ Phần Luật cũng dùng “tước dương chi” v.v…
Các tài liệu Hán cổ21 cho thấy cách dùng tương đương dương chi, liễu chi, dương liễu chi, liễu mộc so với xỉ mộc (Nghĩa Tịnh). Cách dùng tước xỉ mộc 嚼齒木 từng xuất hiện trong Ma Ha Tăng Kì Luật, quyển 34 – soạn bởi các sư Pháp Hiển và Phật Bà Đạt Đà La/ Buddhabhadra. Nghĩa nguyên thuỷ của dương chi là dương thụ chi (nhành cây dương), sau mang theo các nét nghĩa khác như cây chà/ xỉa răng, người hầu/thê thiếp (theo phép ẩn dụ). Cũng nên nhắc ở đây là cây dương có nhiều loại, ít nhất là Bạch dương (白楊), Thanh dương (青楊), Xích dương (赤楊) và Hoàng dương (黃楊) v.v… Tóm lại, dương chi hay nhành dương đã dùng ở Trung Hoa rất lâu cho việc chà/đánh răng (tước dương chi). Các tài liệu về nhai/đánh răng ở Ấn Độ như Pháp Hiển, Huyền Trang – trước thời Nghĩa Tịnh – cũng dùng tước dương chi, nhưng Nghĩa Tịnh phân biệt rõ ràng tước xỉ mộc ở Ấn Độ chứ không phải là tước dương chi, vì dương chi (nhành dương – nhành dương liễu) rất hiếm thấy ở Ấn Độ – đây là chính là trải nghiệm của Nghĩa Tịnh. Bây giờ, thì ít người biết dương chi (nhành dương) từng là tăm xỉa răng so với cách dùng hiện đại là nha thiêm 牙簽 (nha ~ răng, thiêm ~ cái thăm, tăm). Tuy nhiên, tiếng Nhật vẫn còn bảo lưu cách dùng thời Trung cổ dương chi qua dạng つまようじ tsumayōji 爪楊枝 (Tăm xỉa răng – trảo dương chi (Hán – Việt): dương rút gọn thành yō, chi thành ji).
Di Sa Tắc Bộ Hòa Hải Ngũ Phần Luật, quyển 26, ghi lại câu trả lời của Phật Tổ về các vấn đề vệ sinh cá nhân – như bị hôi miệng, thức ăn không tiêu hóa – là ‹ứng tước dương chi› (dùng nhành dương để nhai/chà/xỉa22 răng – tạm dịch/NCT). Tứ Phần Luật cũng ghi lại câu chuyện tương tự. Như vậy là các nhà sư đã dịch từ tiếng Phạn và “bản địa hóa” xỉ mộc của Ấn Độ thành nhành dương (dương chi) cho phù hợp hơn. Điều quan trọng là quyển 26 còn giải thích thêm 5 lợi ích khi dùng nhành dương để làm cho sạch răng: a) Giải nhiệt, b) Tiêu đàm, c) Không hôi miệng, d) Ăn uống tốt hơn (phân biệt được các vị), e) Mắt sáng hơn (nhìn thấy rõ hơn). Ngoài ra, phần này còn chỉ ra 5 loại cây không nên làm xỉ mộc: Cây sơn (tất thụ 漆樹), cây độc, cây xá di (xá di thụ 舍夷樹), cây ma đầu (ma đầu thụ 摩頭樹) và cây bồ đề.
Phiên/dịch nghĩa và phiên âm tiếng Phạn
Điều 8 có 564 chữ Hán, trong đó 2 cách dùng là phiên/dịch nghĩa (xỉ mộc, Long Thọ/Thụ) và 4 cách dùng là phiên âm (Phạn, Phật, Niết Bàn, Na Lan Đà) từ tiếng Phạn. Chẳng hạn từ “Xỉ mộc”:
Pháp sư Nghĩa Tịnh giải thích xỉ mộc có gốc tiếng Phạn là 憚哆家瑟詫 đạn *đả *ca sắt sá (Hán – Việt). Chữ 哆 có các cách đọc là đả:丁可切 đinh khả thiết (Thuyết Văn Giải Tự, Quảng Vận), 丁寫切 đinh tả thiết (Tập Vận) so với âm xỉ: 尺氏切 xích thị thiết (Quảng Vận), 尺里切 xích lí thiết (Chánh Vận). Người viết/NCT chọn cách đọc 哆 là đả, vì là âm cổ hơn so với xỉ. Chữ 家 có các cách đọc *ca (hay *ka) 古牙切 cổ nha thiết (Thuyết Văn Giải Tự, Đường Vận), 居牙切 cư nha thiết (Tập Vận, Chánh Vận) – âm gia (Hán – Việt) là dạng ngạc hoá hậu kì của âm *ca. Do đó, âm Phạn vào thời Nghĩa Tịnh ghi lại là đạn *đả *ca sắt sá hay là *dandakasha, liên hệ rất rõ nét với với tiếng Phạn23 là dantakāṣṭha (दन्तकाष्ठ). Đây là một từ ghép của 2 từ दन्त (dantaḥ), nghĩa là răng/ngà và काष्ठ (kāṣṭha), nghĩa là cây. Do đó, dantakāṣṭha ~ xỉ mộc, là một nhánh hay mảnh cây nhỏ dùng để làm sạch răng. Tiếng Phạn dantakāṣṭha còn được kí âm là (a) 彈多抳瑟搋 đạn đa ni sắt *sai, chữ 搋 đọc là sai: 丑佳切 sửu giai thiết (Đường Vận), (b) 憚啄家瑟多 đạn trác *ca sắt đa – trích từ cuốn “A Dictionary of Chinese Buddhist Terms: With Sanskrit and English”, tác giả Lewis Hodous/William E. Soothill (1937, in lại nhiều lần).
Kết luận
Tóm lại, tìm hiểu điều 8 của Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện cho ta thấy nhiều kết quả thú vị: Đầu tiên là kỷ luật hay nội quy rất nghiêm khắc của Tăng đoàn Phật giáo vào TK VII. Pháp sư Nghĩa Tịnh đã đạt được phần nào mục đích của chuyến du hành qua xứ Phật khi ghi lại tỉ mỉ các hoạt động hàng ngày của tăng lữ. Tài liệu này còn có thể coi như là một cẩm nang sức khỏe, y tế rất ích lợi cho cuộc sống cá nhân hay tập thể cũng như các khác biệt về tập tục của 2 nước lớn (“cường quốc” – Trung Hoa và Ấn Độ) vào thời Trung cổ. Ngài không hài lòng với một số thói quen ở quê nhà, vì không biết tường tận lời đức Phật dạy, một phần là do “dịch giả” đã chuyển ngữ không chính xác từ kinh kệ tiếng Phạn, một phần do sự ngu muội và thiếu kiến thức “khoa học” thường thức. Thí dụ như xỉ mộc khác với dương chi (nhành dương) từ kích thước, vật liệu cho đến cách dùng. Đây có thể là nguồn gốc của cây tăm xỉa răng chăng? Có tác giả đã từng đặt vấn đề như vậy24. Ngoài ra, Nghĩa Tịnh nhất quyết là tước xỉ mộc (nhai/đánh răng bằng xỉ mộc) không phải là tước dương chi (nhai/đánh răng bằng nhành dương) như đa số tài liệu kinh kệ được dịch từ tiếng Phạn. Trong cuốn Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, quyển thượng, Ngài cũng nhắc lại điều này25 (cây xỉ mộc không phải là dương liễu). Không những là các ghi chép về cách dùng cho người ít tuổi đến người già, Nghĩa Tịnh còn chỉ cho biết phương cách vất bỏ các xỉ mộc sau khi dùng, một giai đoạn ít người để ý cho các đồ “phế thải”. Trong những mục đích như là tài liệu lịch sử tôn giáo quan trọng, Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện còn là một nguồn dữ liệu về ngôn ngữ, lịch sử và địa lý rất đáng khai thác thêm. Thí dụ, như trong phần giới thiệu của Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, Ngài ghi rằng “Từ Hoan Châu đi bộ về hướng Nam khoảng hơn nửa tháng, hay sau 5 hay 6 thủy triều khi đi tàu, sẽ đến Chủy Cảnh26. Đi về phía Nam nữa sẽ đến Chiêm Ba27 hay Lâm Ấp”. Thành ra các tài liệu như Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện cung cấp nhiều thông tin quý báu về nhân danh, địa danh cổ để tra cứu cho thêm mức chính xác trong quá trình tìm hiểu chúng. Hi vọng bài viết này sẽ là một động lực cho người đọc tìm hiểu sâu xa hơn về lịch sử Phật giáo và khám phá nhiều kết quả thú vị hơn nữa.
Hiện nay, ít thấy tăng ni dùng xỉ mộc hay dương chi so với bàn chải và thuốc đánh răng. Tuy nhiên, một số nước ở Châu Phi và Hồi giáo vẫn cò giữ tục lệ này – cây nhai/chà răng này gọi là miswak – danh từ này có gốc từ tiếng Ả Rập nghĩa là cây đánh răng. Người viết/NCT có tìm hiểu thêm về thương hiệu (miswak) trong vài tiệm tạp hoá Ấn Độ ở Melbourne (tháng 1 năm 2025), nhưng không thấy cây nhai/chà răng (xỉ mộc) mà lại thấy bán thuốc đánh răng (toothpaste tiếng Anh) hiệu miswak.
Một hàng bán xỉ mộc (miswak) và hình chụp gần một đầu dùng để đánh răng. Có thể xem xỉ mộc như là một dụng cụ “đa năng” làm sạch răng (multifunctional teeth cleaning tool – tiếng Anh) vì có thể là:
– Chà răng/đánh răng (toothbrush ~ bàn chải đánh răng).
– Xỉa răng (toothpick – dùng đầu có các sơ đã mềm để khều chân răng, an toàn hơn tăm cứng).
– Cạo lưỡi (tongue scraper – bẻ cong xỉ mộc để cạo lưỡi/Nghĩa Tịnh), v.v…
1. Nghiên cứu tiếng Việt độc lập (Melbourne, Australia) – địa chỉ email nguyencungthong@gmail.com
2. Trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Nghĩa Tịnh phê bình là tự 寺 (chùa) là cách phiên/dùng không chuẩn (不是正翻 bất thị chính phiên), so với cách dùng 毘訶羅 bì ha la (phiên âm tiếng Phạn vihara विहार là nơi thờ thần/Phật, chùa, tu viện…). Tuy nhiên, ở đây Ngài vẫn dùng tự (~ chùa) cho Na Lan Đà.
3. Nguyên bản không có chủ từ – nên có dịch giả để trống như nguyên bản – người viết/ NCT tạm dùng thuật ngữ sa môn (沙門 – tiếng Phạn sramana) cho rõ nghĩa – cũng như cách ghi sa môn Tịnh Nghĩa trong trang1 của Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện – quyển đệ nhất.
4. Người viết/NCT phỏng dịch 務令如法 (vụ lệnh như pháp) để nhấn mạnh sự chuyên tâm làm việc này (nhai/xỉa/chà răng dùng xỉ mộc ~ tước xỉ mộc 嚼齒木) như nề nếp (luật pháp).
5. Ướt (thấp 溼) hàm ý xỉ mộc còn tươi hay mới cắt ra từ thân cây.
6. Thu hồ 麁胡 hay thương nhĩ 倉耳 (burweed tiếng Anh) là loại cây nhỏ dễ mọc, lá có gai…
7. Một tấc xưa (dịch chữ thốn 寸, đơn vị đo lường TQ cổ đại) bằng khoảng 3.3 cm hay một ngón tay.
8. Bệnh tim ở đây là dịch chữ 癊 trong Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện, một chữ rất hiếm – đọc là ấm hay âm (於禁切 ư cấm thiết – Quảng Vận, Tập Vận – hàm ý tâm bệnh 心病. Theo Quảng Vận, Tập Vận ~ “bệnh đường ruột (bên trong/tâm) – NCT” – để ý đây không phải là bệnh tâm lý như cách hiểu hiện đại/NCT. Học giả Takakusu (1896) dịch là heartburn hay chứng ợ nóng có vẻ phù hợp với các điều lợi khi dùng xỉ mộc. Học giả Li Rongxi, dịch là heart disappear thì rất tối nghĩa.
9. Để ý: Tam tuần 三旬 ở đây nghĩa là 3 lần 10 ngày (1 tuần xưa là 10 ngày) hay một tháng – không phải là 3 tuần hay 3×7 = 21 ngày như cách hiểu hiện đại!
10. Sao 抄 là đơn vị đo lường dung tích nhỏ của TQ cổ đại, tương đương với sức chứa của một muỗng (thìa). Câu này không rõ nghĩa, vì dùng động từ ẩm 飲 là uống/cho uống: 次後若能鼻中飲水一抄 thứ hậu nhược năng tị trung ẩm thủy nhất sao – tạm dịch/ NCT sau đó uống bằng mũi một sao nước (sau đó uống một muỗng/lượng nhỏ nước qua mũi). Sao Hán – Việt là một cái thìa/muỗng nhỏ, hay một đơn vị dung tích bằng 1.804 ml (= 1/10 toát 撮). Môn phái yoga cổ từng có tập tục rửa mũi gọi là neti नेती , phải chăng Nghĩa Tịnh có hàm ý này chăng?
11. Người viết/NCT dịch trường niên 長年 là (phương pháp sống được) nhiều năm, cũng như học giả Takakusu (1896), tuy nhiên cũng có người dịch là (phương pháp dùng) nhiều năm của Ngài Long Thọ – để ý Luận sư Long Thọ sinh vào khoảng 150 và qua đời năm 250, hay sống được 100 tuổi thọ.
12. Nghĩa Tịnh dùng Tây quốc 西國 (~ nước ở phía Tây – chỉ Ấn Độ – so với cách dùng Tây vực 西域), người dịch/NCT dùng (các nước ở) Tây phương cho phù hợp vời thời kỳ này. Takakusu (1896) cũng dịch đoạn này là “Đau răng rất hiếm ở Ấn Độ vì người ta dùng xỉ mộc để xỉa/chà răng”.
13. Nghĩa Tịnh ghi là 那爛陁寺 Na Lan Đà tự (chùa Na Lan Đà). Chữ 陁 là chữ hiếm, dùng như 陀 đà (theo Ngọc Thiên, năm 543).
14. Takakusu dịch đoạn này là “người đọc không cần phải nghi ngờ gì nữa” – nguyên bản dùng cho bài viết này/NCT – ghi là 聞者 văn giả (người nghe chứ không phải là người đọc hay độc giả 讀者).
15. Takakusu dịch đoạn này là “Vài nơi ở Trung Hoa dùng các cành liễu nhỏ để nhai và không biết cách súc/rửa miệng cho sạch nước ra/dịch (juice)”. Có thể bản nguồn có sự sai lệch/khác biệt hay chăng? Tài liệu Phật giáo liên hệ ở Nhật Bản và Trung Hoa có thể được chép lại khác/sai đi so với bản chính. Pháp Sư Dōgen (道元 1200-1253) từng nhận xét rằng Tăng đoàn ở Nhật vẫn còn dùng “xỉ mộc” so với Tăng đoàn Trung Hoa lại không biết đến, dù rằng giới luật thường nhắc nhở, và do đó các nhà sư Trung Hoa thường bị hôi miệng (tham khảo cuốn “A Pure Mind in a Clean Body: Bodily Care in the Buddhist Monasteries of Ancient India and China”, tác giả Ann Heirman và Mathieu Torck – Academia Press 2012).
16. Các bé lên ba thường có 20 chiếc răng sữa, bắt đầu rụng đi khi lên 6 hay 7 tuổi. Đến lúc 12 tuổi thì có 20 răng vĩnh viễn. Dạy cách dùng xỉ mộc cho các bé lên ba (cũng như khắp cả 5 miền của đất Ấn Độ) cho thấy phần nào mức độ phổ thông của phong tục này trong xã hội Ấn Độ vào TK 7 (qua trải nghiệm của Nghĩa Tịnh).
17. Tùy tâm, hàm ý tùy theo sự phán xét/trải nghiệm của người đọc mà chấp nhận hay bác bỏ. Đây là một cách nhìn khách quan/khoa học không khiên cưỡng, so với khái niệm tự lực và tha lực trong Phật giáo v.v…
18. Takakusu dịch đoạn này như sau: “Tôi đã giải thích giá trị/so sánh tục nhai/xỉa răng bằng xỉ mộc ở Trung Hoa và Ấn Độ, mỗi nghĩa xét đoán cho chính mình để xem có thể chấp nhận/thực hành hay bác bỏ tục lệ này”. Không thấy các địa danh cận đại như Trung Hoa hay Ấn Độ trong nguyên bản (dùng để soạn bài viết này/NCT).
19. Thước xưa là xích 尺, một đơn vị đo chiều dài thời cổ, khoảng 25 cm vào thời nhà Tùy (thời nhà Thanh khoảng 33 cm). Thước là một dạng âm cổ của xích còn bảo lưu trong tiếng Việt – Tự điển Việt-Bồ-La (1651) ghi thước là cubitus (tiếng La Tinh), một đơn vị đo chiều dài cổ dao động từ 46 cm đến 53 cm. Cubit nguyên thủy là chiều dài từ cùi chỏ đến đầu ngón giữa. Taberd (1838) dịch cubitus là cánh chỏ, xích, một thước…
20. Tùy Thư là chính sử của nhà Tuỳ (591-618), gồm 85 quyển.
21. Tham khảo chi tiết trong bài viết của GS Vương Khánh (2018) “嚼楊枝:歷史上的 潔齒習俗” (Tước dương chi: Lịch sử thượng đích khiết xỉ tập tục) – Đại học Sư phạm Văn học (Bắc Kinh).
22. Thượng tọa Thích Thiện Phước dùng động từ “nhăn” để dịch tước (Hán – Việt): tước dương chi ~ nhăn nhành dương – Tham khảo bài viết (2015) “Nguồn gốc nhành dương và tăm xỉa răng”.
23. Tiếng Pali là danta-katth hay danta-pona.
24. Tăm xỉa răng (toothpick tiếng Anh), tiếng Trung (Quốc) là nha thiêm 牙籤 (nha ~ răng, thiêm ~ thăm/xăm ~ tăm). Có tác giả đề nghị nguồn gốc của tăm xỉa răng là từ đức Phật Tổ – tham khảo các trang này chẳng hạn https: //kyosuzume.or.jp/en/blog/%E3%81%8A%E7%AE%B8%E3%81%A8%E 3 % 8 3 % 9 5 % E 3 % 8 2 % A 9 % E 3 % 8 3 % B C % E 3 % 8 2 % A F % E 3 % 8 0 % 8 1 %E7%88%AA%E6%A5%8A%E6%9E%9D/ hay https://www.rxpelletmachine.com/info/the-history-of-toothpicks-50395500.html …v.v…
25. Nghĩa Tịnh viết 根本殿西有佛齒木樹非是楊柳 Căn Bản điện tây hữu xỉ mộc thụ phi thị dương liễu: Tạm dịch/NCT điện Căn Bản phía tây có cây xỉ mộc, không phải là dương liễu. Căn Bản là dịch tiếng Phạn mula, nghĩa là gốc rễ, là tên một tháp trong chùa Na Lan Đà – tên tiếng Phạn của tháp này là Mūlagṇḍhakuṭi. Gandha là mùi thơm (hương), kuti là nhà nơi nhà sư/đức Phật Tổ ở (điện). Căn bản hương điện là dịch nghĩa, còn mộ la kiệt đà câu chi 慕攞健陀俱 là phiên âm từ tiếng Phạn.
26. Chủy Cảnh 匕景, một dạng âm trung cổ phục nguyên là *pi *kinh, không biết là địa danh nào ở An Nam – có tác giả đề nghị là khu vực Đà Nẵng hay Huế ngày nay? Lại có tác giả cho rằng Nghĩa Tịnh đã ghi nhầm v.v…
27. Pháp Hiển trong Phật Quốc Kí cũng nhắc đến một nước Chiêm Ba (瞻波大國 Chiêm Ba đại quốc) nằm bên bờ sông Hằng, nơi đức Phật Tổ từng ghé qua.