CHIẾC ĐĨA CỔ
HUỲNH DŨNG
Chiếc đĩa cổ Bát Tràng. Ảnh minh họa
Mưa đã dứt. Vừa mới sáng. Bên trên khung cửa sổ, trời thu xanh dìu dịu. Cả những búp non mơn mởn còn đọng giọt mưa đêm. Cả mặt hồ màu xanh lá run gờn gợn như làn da đài các quen ủ kín trong lụa là, giờ đột nhiên hứng phải làn gió lạnh đầu mùa. Cả tiếng ếch gọi nhau chộn rộn từ mấy lùm tre. Cả tiếng ríu ra ríu rít như lần đầu biết hót của lũ chim ở bìa rào.
Đã đi qua những ồn ào, náo nhiệt của tuổi trẻ; lúc bước vào tuổi xế chiều, khi “ngộ” ra đời người chỉ là khách trọ chốn nhân gian, mỗi lần ra thăm đất Bắc, tôi lại tìm về chốn này.
Cảnh vườn chùa Tiêu Dao làm cho lòng người êm dịu lạ.
Ông Ký, anh Hùng, cô giáo Diệu Liên, đón tôi với những nụ cười ân cần, xởi lởi như người nhà:
– Thầy từ sân bay tới đây luôn…?
Tôi nói vui, không hàm ý triết lý:
– Vâng! Lỡ chuyến bay này, còn chuyến khác; nhưng khi bỏ lỡ sự chân tình của Tiêu Dao thì e rằng cả phần đời còn lại, không dễ gì còn cơ duyên báo đáp.
Nhận tách trà được mời, tôi áy náy:
– Nay đã 12 âm, đang tất bật chuẩn bị đại lễ Phật đản ở ngôi chùa nổi tiếng đất Bắc như Tiêu Dao, sao thầy trụ trì Bảo Phúc lại mời tôi vào lúc này?
Giọng Hạnh Liên chùng xuống, ngùi ngùi:
– Thầy lặn lội từ Quy Nhơn ra thăm chùa con. Thầy con đã hẹn đón thầy, nhưng đành lỡ hẹn vì vừa từ vùng cao Tà Chì Nhù về, thầy con lại đi ngay trong đêm vì nhận tin cung đường mới làm cheo leo vắt ngang qua dãy núi Dùm bị nước lũ cuốn trôi, sạt lỡ. Đường về Tuyên Quang với những khúc cua tay áo kèm độ dốc lớn khiến nhiều người e sợ, huống chi lũ trẻ con nghèo miền núi của mái trường thầy con vừa mới làm xong tháng trước… nên thầy con sắp xếp chú Ký và anh em con tiếp thầy ạ!
Ông Ký trầm ngâm:
– Có một chuyện từ lâu muốn kể với thầy, mà cứ lần lữa mãi…
***
Đôi lần, Đại đức Bảo Phúc tâm sự với các đệ tử, dòng tộc nhà thầy vốn gốc xứ Đông, định cư ở phủ Thượng Hồng trong giai đoạn từ thời Trần cho tới cuối thời nhà Mạc.
Thuở xưa, ông cha thầy đã từng hiện diện, khi những người dân Bạch Bát đến vùng đất bồi ven bờ sông Hồng lập phường làm nghề gốm.
Tới khi Chúa Nguyễn Hoàng tiến về phương Nam mở cõi, thì cụ Tổ của dòng họ thầy khoác áo viễn chinh, chiến đấu dưới cờ Chúa Nguyễn. Lập được nhiều chiến công lừng lẫy, nên Cụ trở thành một đại thần bên cạnh Chúa. Các thế hệ con cháu sau này tiếp tục làm quan dưới triều Nguyễn, từng tham gia những trận đánh vang danh tại thành Đồ Bàn (thủ phủ đất Chiêm Thành).
Thế kỉ sau, dòng họ thầy về lại đất Bắc rồi chia thành hai nhánh: Một nhánh dừng chân ở Bạch Thổ Phường (tên gọi lúc đầu của Bát Tràng), một nhánh lập nghiệp ở vùng cao Tây Bắc.
Trên bước đường tiến về phương Nam, cụ Tổ đã mang theo bí quyết gia truyền làm đồ gốm sứ ở xứ Đông. Duyên xưa nghiệp cũ, cửa mở hướng nào, gió lùa hướng ấy, sau này con cháu đã khởi nghiệp nghề gốm tại Bình Định. Những năm thanh bình, nghề gốm rất phát đạt và dần nổi tiếng với thương hiệu Gốm Vân Sơn. Sản phẩm đã kết hợp được những bí quyết gia truyền của Bát Tràng – một làng nghề vang danh đất Bắc với nắng gió, thổ nhưỡng của phương Nam để tạo ra loại gốm mới rất được người Nam ưa chuộng. Tuy nhiên, màu men vẫn là màu men cổ xưa, chỉ những người trong dòng họ mới có thể nhận biết loại men này bởi nó là loại quý hiếm, được làm nên từ một kỹ thuật làm men bí truyền. Gốm sứ Vân Sơn Bình Định ngày nay chiếm tỉ trọng đáng nể trên thương trường cũng phần lớn nhờ vào loại men này.
Khi biết thầy Bảo Phúc sắp lên vùng cao Tây Bắc xây nhà tình thương và dãy trường mẫu giáo cho trẻ em Khơ Mú, Pà Thẻn, Phù Lá,… ông nội của thầy gọi lại, nói:
– Con lên Tây Bắc, gắng xem có tìm được gốc tích dòng tộc cũ nhà mình ngày xưa không? Chắc là sẽ rất khó vì thời gian quá lâu rồi, mà địa bàn Tây Bắc quá rộng – tới 6 tỉnh. Lại nữa chiến tranh liên miên, chính trường biến động nên nhiều dòng họ đã bị xóa, bị thay tên đổi họ… Tuy nhiên, ta có thể đưa cho con vật này để căn cứ vào đó giúp con tìm.
Ông cụ trịnh trọng lấy từ trên án thờ cái đĩa có màu men tươi đẹp của gốm Vân Sơn, bảo:
– Màu men này chỉ có duy nhất dòng họ ta làm được. Đó chính là bí truyền mà cụ Tổ đã mang từ xứ Bắc vào Bình Định. Đến thế hệ sau, sản phẩm của gia tộc nhà mình lại hoàn nguyên ra Bắc, để góp mặt làm rạng danh làng Gốm sứ Bát Tràng với năm châu bốn bể. Rồi lịch sử sang trang, “thương hải biến vi tang điền”, như đại thụ ngàn năm, một chi của dòng tộc ta, của Gốm sứ Vân Sơn – hậu thân của gốm sứ Bát Tràng đã vươn nhánh thứ hai lên vùng cao cùng đồng bào Thái, Mường, Tày, Nùng, Khơ Mú,…
Bây giờ, con cầm mẫu này và tìm đến những làng gốm trên đó, xem ở đâu sản xuất được màu men như thế này, thì đấy chính là nơi ông cha ta từng lập nghiệp.
Đó là một loại men xanh thẫm màu nước biển, nước men bóng ngời, có độ sâu và nhìn kĩ thấy lấm tấm những ngôi sao nhỏ. Đưa ra ngoài ánh nắng, những ngôi sao dường như lấp lánh, nhấp nháy; trông hệt như những vì tinh tú trên bầu trời cao. Trong lòng đĩa nổi lên hai câu thơ:
Nghêu ngao vui thú yên hà.
Mai là bạn cũ, hạc là người thân.
***
Từ ngày đặt chân lên Tây Bắc, Bảo Phúc luôn có ý dò hỏi tìm gốc tích dòng tộc mình. Bạn đồng tu nên thầy thân với Thượng tọa Minh Đăng – một bậc thầy am tường về đồ cổ, nhất là gốm sứ. Bảo Phúc nhờ sư Minh Đăng xem có biết ở đâu làm ra loại gốm có men như mẫu của ông nội đưa. Sau khi xem xét kỹ càng, Sư khoanh vùng được một khu vực sản xuất các sản phẩm có nước men như chiếc đĩa. Có thể vùng quê đó chính là nơi dòng họ thầy Bảo Phúc từng sinh sống và làm ra loại gốm quý này.
Khấp khởi tìm, để khi thầy cùng anh Phật tử thuần thành tên Văn đến các lò này thì gặp nhiều loại men đẹp; nhưng loại men xanh biếc mà trên mặt gốm có những ngôi sao li ti, lóng lánh, nhấp nháy khi ra nắng thì tuyệt nhiên không thấy.
Lại thêm hơn hai tuần kiên trì tìm kiếm ở mấy làng nghề vùng cao, không thu được kết quả như mong đợi. Thất vọng, hai thầy trò Bảo Phúc chia tay các nghệ nhân ra về.
Trên đường qua xóm nhỏ dưới chân đồi thuộc địa phận hai huyện Quỳ Hợp, Con Cuông, Quạ kêu. Chiều tà, Hoàng hôn đỏ rực sau dãy núi mờ xa.
Đang cắm cúi đi, Bảo Phúc chợt nghe nhiều tiếng người quát nạt dọa dẫm và một giọng nữ khóc lóc sau mấy bụi cây lúp xúp dưới tàn cổ thụ. Nhà sư bước vội đến. Trước mặt là ba gã đàn ông mặt mày dữ tợn, râu ria xồm xoàm, xăm trổ đầy người, đang tìm cách kéo cô gái đi sâu vào hẻm núi. Cô gái trạc tuổi đôi mươi, xinh đẹp với mái tóc đen óng xõa vai, vừa van xin thảm thiết, vừa tuyệt vọng nhìn xung quanh mong có người đến cứu.
Bảo Phúc từ tốn nói: “Này, buông cô bé ra. Sao các anh dám làm vậy giữa ban ngày ban mặt?”.
Còn Văn, chỉ sải mấy bước đã áp sát bọn chúng.
Tên cướp chân tay cuồn cuộn cơ bắp, dáng chừng là thủ lĩnh tiến đến gần Bảo Phúc, quắc cặp mắt trắng dã, vằn tia máu, gườm gườm như muốn ăn tươi nuốt sống người trước mặt. Thầy vẫn bình tĩnh, điềm đạm nói: “Các anh thả cô gái ra đi, nhân đã gieo thế nào thì quả lơ lửng còn đó, chỉ chờ ngày đền trả. Đừng làm việc ác rồi phải trả giá đắt!”. Ngạc nhiên, hắn nhìn từ đầu đến chân nhà sư trẻ và bất thình lình vung tay đấm một quả vào mặt Bảo Phúc. Nhà sư nhanh nhẹn cúi đầu tránh, nghe thoáng như có tiếng rít bên tai. Chắc tên này cũng võ nghệ cao cường nên quả đấm có tiếng gió rít như vậy. Thấy đánh hụt, tên cướp lấy đà tung một cước tạt sườn đối thủ. Nhà sư lùi lại né cú đá. Sau hai lần đánh hụt, hắn hậm hực nói: “À, ra mày cũng biết chút võ nghệ à!”. Hơi hạ thấp người, hắn nheo mắt quan sát như đánh giá đối thủ trẻ tuổi để ra đòn quyết định.
Đẩy nhẹ bờ vai sư phụ sang bên, hít một luồng khí vào đan điền, buông thư hai tay giữ thế thủ, Văn bước lên phía trước đối đầu tên cướp, bình thản chờ tiếp đòn…
Tên cướp đánh dứ tay trái vào mặt Văn rồi bất thình lình tung đôi chân song phi thẳng vào ngực đối phương. Vốn là cao thủ của làng võ cổ truyền An Thái – Bình Định, Văn nhẹ nhàng xoay nửa người, bước sang trái, đợi khi tấm thân kềnh càng của hắn trượt qua vừa tầm, anh vung bàn tay chặt mạnh vào cổ chân phải cùng lúc thúc cùi chỏ chấn vào nhượng chân trái theo thế “triệt hạ” trong bài Hùng Kê Quyền của anh hùng Nguyễn Lữ – bào đệ của vua Quang Trung. Chỉ nghe tiếng huỵch, cái thân hình non cả tạ đã đổ gục xuống đất. Hắn nằm co quắp, đau đớn, không gượng dậy nổi.
Bảo Phúc ngăn không cho Văn xuống tay. Nhà sư lặng lẽ cúi xuống nắm lấy cổ chân đã bị trật khớp của tên cướp nắn, vuốt rồi xé vạt áo buộc lại, dặn: “… Yên tâm, khớp xương đã ổn, vài giờ sau sẽ hết đau”. Hai tên cướp còn lại nhìn nhà sư với ánh mắt vừa biết ơn vừa sợ hãi. Chúng buông cô gái ra, đẩy về phía thầy trò Văn rồi cõng tên cầm đầu đi sâu về hướng núi – chắc hang ổ của chúng ở trong đó.
Cô gái đã lấy lại bình tĩnh, lau nước mắt chắp tay đảnh lễ tạ ơn ân nhân.
Nhà sư hiền hòa hỏi:
– Nhà cô ở đâu, tôi đưa về. Vùng này vắng người, trời chiều đã muộn, đi một mình nguy hiểm lắm.
Cô gái lí nhí đáp:
– Nhà con ở gần đây, cách khoảng 3km. Hôm nay, bố mẹ sai con đi công việc nên gặp nạn. May Bồ tát cho thầy tới cứu, không thì con chết mất.
Hoàng hôn xuống nhanh.
Đến nhà, bố mẹ cô gái cảm động, giữ thầy trò nhà sư ở lại mời bữa cơm chay, nhưng Bảo Phúc từ chối vì còn phải về chùa cho kịp. Lúc từ giã gia chủ, bất chợt thầy thấy thoáng có ánh sáng nhấp nhánh trên bàn thờ khi vệt nắng cuối cùng của ngày chiếu vào từ cửa sổ. Tưởng mình bị quáng mắt, nhưng nhìn kĩ trên bàn thờ ở vị trí trung tâm bày chiếc đĩa có men xanh biếc. Tò mò, Bảo Phúc tới gần, thì thầm đọc hai câu thơ in trong lòng đĩa:
Nghêu ngao vui thú yên hà.
Mai là bạn cũ, hạc là người thân.
Thận trọng, thầy hỏi:
– Thưa cụ, có phải đây là đĩa gốm cổ?
Ông cụ sốt sắng trả lời:
– Thưa thầy, đúng vậy, đây là vật gia bảo các cụ tôi để lại. Nó có tuổi mấy thế kỷ rồi.
Mừng rỡ như người thủy thủ bị đắm tàu sau nhiều ngày, dạt được vào bờ, Bảo Phúc xin phép được xem kĩ lượt nữa, rồi rút chiếc đĩa mang theo trong mình ra đối sánh. Chúng giống nhau một cách kì lạ, trên mặt đĩa hàng vạn ngôi sao li ti cùng nhấp nháy khi đưa ra dưới ánh nắng trời chiều.
Ngạc nhiên tới mức sửng sốt, cụ già lập cập đeo cặp kính lão lên, hai tay run run cầm hai chiếc đĩa lên so sánh:
– Trời ạ, lần đầu tiên tôi thấy có một cặp đĩa giống nhau vô cùng như vậy.
Cụ già lẩm bẩm, mân mê nét chữ nổi sần trong lòng đĩa:
– Không lẽ lại là chính nó? Chiếc đĩa thứ hai mà trong họ vẫn lưu truyền suốt mấy trăm năm nay.
– Chiếc đĩa thứ hai nào ạ, thưa cụ? – Nhà sư hỏi.
Ông cụ xúc động, với lấy chiếc áo the thâm đã bạc màu treo cạnh đôi liễn cũng đã nhạt màu vàng son. Mặc áo dài vào, cụ chậm rãi trang nghiêm thắp ba nén hương dâng lên bàn thờ gia tiên, thành kính rì rầm khấn…
Xong, cụ quay về phía Bảo Phúc kể rõ ngọn ngành:
– Số là nhiều đời trong dân gian lưu truyền câu chuyện như vầy: Vào năm nào xa xưa lắm, cụ Tổ dòng họ ta khởi nghiệp nghề gốm sứ ở ngoại ô kinh thành Thăng Long. Thuở ấy có rất nhiều văn quan, danh sĩ… tới lui thăm viếng, xướng họa thi ca. Sao được thế? Kẻ trí trọng thực tài, kẻ hám lợi tranh hư danh, hà cớ chi phải nặng lòng bám chấp! Bởi vậy, dù nổi tiếng hay chữ nhưng Cụ không chọn con đường khoa cử, đi thi làm quan mà chuyên tâm nghiên cứu về gốm sứ.
Năm ấy, cụ Nguyễn Tiên Điền đến thăm. Họ vốn là tri âm tri kỷ, quen biết rồi thân nhau từ ngày còn là hàn sĩ vui thú tiêu diêu ở làng Tiền. Thời ấy, xã Tiên Điền có 5 làng: Làng Đông, Làng Võ, Làng Bảo Kệ, Làng Văn và Làng Tiền. Làng Tiền – chuyên nghề làm nón – là nơi ở của nhà thơ. Sau vài tuần rượu cúc, bàn chuyện thời thế, xướng họa thi ca; vui quá cụ Nguyễn Tiên Điền nhân lúc biếu cụ Tổ cặp nón làng Tiền, cao hứng cầm bút viết tặng gia chủ đôi câu thơ theo lối hát ví phường nón một cách tài hoa vào lòng nón: “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người thân”.
Thời gian sau, vì chán ghét thế sự đảo điên: “Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm), người con trai thứ hai của cụ Tổ vào Huế đi theo Chúa Nguyễn Hoàng. Tới năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, Phó Lãnh sự Pháp là Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị trấn nhậm – cha truyền con nối – cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên trải dài đến Phong Thổ. Do mối quan hệ thâm giao từ trước, người con thứ hai của cụ Tổ được Đèo Văn Trị mời lên Tây Bắc làm việc. Tùy nơi mà an, tùy duyên mà sống; vốn tánh khoáng đạt, mê mải nơi trăng rừng gió núi, nên ông nhận lời đưa cả nhà lên Mường Khương.
Cụ Tổ có hai người con trai. Cụ đích thân đứng chỉ thợ làm hai chiếc đĩa cổ giống hệt nhau đến từng tiểu tiết. Trong lòng đĩa in “sần” hai câu thơ tuyệt bút của danh sĩ Nguyễn Tiên Điền. Hai chiếc đĩa này được làm bằng chất liệu đặc biệt, ẩn giấu tinh hoa chân truyền và bí truyền của gốm sứ Vân Sơn tiếp thu từ gốm sứ Bát Tràng.
Cụ Tổ giao cho mỗi người con trai giữ một chiếc đĩa.
Nếu đây đích thị là chiếc đĩa thứ hai, thì quả là đại hạnh của dòng tộc. Ơn chư Phật, chư Tổ phù hộ độ trì để sau hàng trăm năm “lá lại rụng về cội”, để “nước tuôn ra bể lại quay về nguồn” (thơ Tản Đà).
– Thầy để tôi kiểm tra lần nữa.
– Vậy, xin mời cụ, nếu đúng thì quả là duyên lành, phước lớn!
Cụ già cầm hai đĩa úp vào nhau thì chúng như tỏa ra từ trường hút lấy nhau. Rất khít! Tuyệt không có một khe hở nào cho không khí có thể thoát ra.
Cụ bảo người nhà lấy một chậu nước, rồi thả đôi đĩa đang chồng úp vào nhau. Cặp đĩa khi được thả vào nước vẫn nổi lềnh bềnh, hoàn toàn không chìm. Dùng tay ấn nó chìm nghỉm trong chậu, bỏ tay ra lại nổi lên bập bênh như chiếc xuồng nhỏ.
Bảo Phúc kinh ngạc, thầm thì tự nhủ với mình:
– Thật kì diệu quá!
– Kĩ thuật gốm của dòng họ ta ngày đó đã tuyệt đỉnh như vậy.
Ông cụ hồ hởi quay lại phía nhà sư:
– Đúng, đây chính là chiếc đĩa thứ hai. Vậy thầy là người trong họ đấy. Bây giờ, nghiệm xem vai vế thầy thế nào?
Cụ chăm chú lẩm nhẩm đọc dòng chữ Hán nho nhỏ đã nổi lên bên mép đĩa khi ghép úp chúng vào với nhau. Thì ra ở mỗi mép đĩa đều có một nửa chữ Hán. Khi ghép đĩa lại hai nửa chữ, ở mỗi đĩa tạo thành một từ, tổng cộng tất cả có 20 từ.
– Trời, sao lại có nghệ thuật ghép chữ tinh vi đến thế!
Ông cụ lại chìm vào trầm tư mặc tưởng, giọng nói trở nên u hoài như vọng lại tự cõi nào:
– Con số 20 từ này là 20 từ đệm của 20 thế hệ trong dòng tộc chúng ta. Ví dụ: Những từ đầu tiên: Công, Tài, Trường… thì có nghĩa là cụ đứng đầu sẽ tên là Nguyễn Công X, các con cụ sẽ là Nguyễn Tài Y… và thế hệ cháu sẽ là Nguyễn Trường Z…v…v… Căn cứ trình tự đọc của chu kì 20 tên đệm, sẽ xác định được từng thế hệ, để xác lập vai vế trên dưới. Xin hỏi thầy, tên thế tục là gì?
– Dạ, tục danh của con là Nguyễn Quang Hòa.
– Xem nào, à đời thứ 15. Vậy về vai vế thầy gọi tôi bằng chú. Con bé vừa rồi thầy cứu nó là em thầy.
Đặt tay lên vai Bảo Phúc, ông run giọng xúc động:
– Bây giờ, mời thầy sang nhà thờ họ, ngay bên cạnh đây thôi, để tôi thắp hương bẩm báo cụ Tổ là nhánh thứ hai của dòng họ nhà ta bén rể tại Thủ đô, nay đã trở về dâng hương bái lạy Cửu Huyền Thất Tổ.
***
Mọi thứ trên đời đều hữu hạn, trăm năm tan – hợp cũng chỉ gom tròn trong một chữ Duyên. “Biển xanh hóa thành ruộng dâu”, còn gốm sứ Vân Sơn quê thầy, gốm sứ Bát Tràng quê tôi cùng với bao miếu mạo, đền, chùa sẽ mãi trường tồn; cũng như cánh hạc vàng trong thơ Thôi Hiệu vẫn vỗ cánh hơn ngàn năm trước và áng mây trắng muôn đời vẫn “bạch vân thiên tải không du du”!
Kể xong chuyện về chiếc đĩa gốm sứ cổ – kỷ vật gia bảo của dòng tộc thầy Bảo Phúc, ông Ký lim dim mắt nhìn ra mảnh vườn chùa đang liu riu gió. Vẫn là thứ gió của “lòng Từ” hiền hòa, nhẹ nhàng phe phẩy ngọn cau, giậu hoa râm bụt; thứ gió đã đón tôi ngày đầu lạc bước tới Tiêu Dao.