Bỏ qua nội dung Bỏ qua thanh bên Bỏ qua chân trang

LÝ THÚC ĐỒNG – HOẰNG NHẤT, ĐỜI ĐẠO VIÊN DUNG

 

LÊ HẢI ĐĂNG

 

 

Đại sư Hoằng Nhất – Lý Thúc Đồng

 

Lý Thúc Đồng là một nhân vật đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật Trung Quốc, tác giả lời ca bài “Tống biệt”, nhạc của John P. Ordway – tác phấm gắn liền với tuổi học trò.

“Ngoài ngôi đình dài, bên lối đi xưa, cỏ thơm với trời liền một màu xanh.

Gió chiều lay cành liễu, tiếng địch xa vọng lại, núi ngoài núi dưới ánh tà dương…”

Nếu không biết tác giả lời ca bài hát trên chắc nhiều người lầm tưởng đó là một bài “Tống từ”. Tác phẩm vẽ nên khung cảnh êm đềm với vẻ đẹp mơ màng, dung dị tựa như một bức tranh thủy mặc.

Lý Thúc Đồng, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1880, tại Thiên Tân trong một gia đình danh gia vọng tộc. Cha Lý Thế Chân từng đậu tiến sĩ năm thứ 4 niên hiệu Đồng Trị thời nhà Thanh. Ông có tới ba người vợ, mẹ Lý Thúc Đồng là bà ba, trẻ nhất. Khi sinh Lý Thúc Đồng, bà mới 20 tuổi, còn cha đã 68 tuổi. Cha Lý Thúc Đồng mất khi ông mới lên 5. Nghe nói trong đám tang cha, chư tăng tụng kinh Kim Cang, vô hình trung đã gieo vào lòng cậu hạt giống Đạo mầu. Mồ côi cha từ nhỏ, năm 18 tuổi, Lý Thúc Đồng rời quê cha xuống vùng Giang Nam sinh sống. Ông theo học Trường Công học Nam Dương (tiền thân Trường Đại học Giao thông Thượng Hải), tham gia Hội Thư họa Thượng Hải, Học hội Thượng Hải… Tháng 3 năm 1905, mẹ Lý Thúc Đồng đột ngột qua đời ở Thượng Hải, hưởng dương 46 tuổi. Sau đó một năm (1906), Lý Thúc Đồng quyết định sang Nhật Bản du học chuyên ngành mỹ thuật và âm nhạc tại Trường Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Sau 5 năm tu nghiệp, Lý Thúc Đồng về nước giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm Thượng Hải. Ông đem sở học của mình truyền cho các học trò. Vốn là một nghệ sĩ đa tài, tích hợp nhiều khả năng thiên phú từ thư pháp, thủy mặc, tranh sơn dầu cho đến thi ca, âm nhạc, kịch nói và ở lĩnh vực nào Lý Thúc Đồng cũng tỏ ra xuất chúng. Ông là người đầu tiên đưa lối ký âm bằng số ở Nhật Bản du nhập Trung Quốc. Phương pháp ký âm này đến nay vẫn được áp dụng rộng rãi. Lý Thúc Đồng gắn liền với nhiều cái nhất, người sớm nhất nghiên cứu âm nhạc, hội họa sơn dầu phương Tây. Năm 1906, Lý Thúc Đồng cùng với bạn học Tăng Hiếu Cốc sáng lập Đoàn kịch nói Nghiệp dư “Xuân liễu xã”, từng diễn vở “Trà hoa nữ” mà Lý Thúc Đồng thủ vai nữ nhân vật chính. Việc làm này đánh dấu cột mốc quan trọng trong việc hình thành nền nghệ thuật kịch nói Trung Quốc. Bên cạnh tiếp thu trào lưu nghệ thuật mới, Lý Thúc Đồng còn đẩy nền nghệ thuật truyền thống lên một tầm cao mới như: thư pháp, khắc triện, khắc vàng, đá, hý kịch, thư pháp và văn học. Bởi vậy, học giả Lâm Ngữ Đường xếp ông vào một trong mười nghệ sĩ lớn nhất thế kỷ 20 ở Trung Quốc. Tạp chí âm nhạc đầu tiên ở Trung Quốc cũng do Lý Thúc Đồng sáng lập. Nói chung, trong mọi lĩnh vực thi ca, âm nhạc, văn học, thư pháp, hội họa, khắc triện, hý khúc, kịch nói, Lý Thúc Đồng đều gặt hái được những thành tựu khiến người đời kinh ngạc và khâm phục. Ông đại diện cho thế hệ văn nhân thời kỳ đầu Trung Hoa Dân quốc (sau Cách mạng Tân Hợi 1911) mang trong mình hoài bão lớn. Tuy vậy, trong con người kỳ tài này cũng ẩn chứa nhiều mâu thuẫn. Ông vừa là tấm gương mẫu mực trong lĩnh vực nghệ thuật, vừa hội tụ đủ thói hư, tật xấu. Đương thời, Lý Thúc Đồng là khách làng chơi thân thiết ở nhiều kỹ viện danh tiếng tại Thượng Hải. Lời đồn rằng, họ Lý thường xuyên ngủ vùi trong lòng kỹ nữ. Xuất thân từ tầng lớp thế gia, ông ném mình vào cuộc sống thác loạn, phóng dật, trác táng…

Năm 1912, Lý Thúc Đồng bắt đầu giảng dạy hội họa, âm nhạc tại Đại học Sư phạm Chiết Giang. Bấy giờ, hai bộ môn nghệ thuật này không được coi trọng. Sau khi Lý Thúc Đồng về giảng dạy tại trường, hội họa và âm nhạc trở thành những môn học thực sự gây hứng thú với sinh viên. Người ta có thể cảm nhận được sự thay đổi qua hoạt động ngoại khóa, từ việc đi vẽ ngoại cảnh cho đến sinh hoạt âm nhạc tập thể. Ông áp dụng phương pháp mới, thực học và đặc biệt kích thích trí sáng tạo của sinh viên. Lý Thúc Đồng chính là người đầu tiên đưa môn ký họa chân dung khỏa thân vào trường đại học. Mặc dù gặp phải sự phản đối kịch liệt của người đương thời, sự trói buộc của truyền thống văn hóa Nho giáo hàng ngàn năm trong cái nhìn về cơ thể con người, song quyết tâm và sự kiên định của Lý Thúc Đồng đã chiến thắng. Ông từng nói: “Sáng tạo mà không có tự do thì lấy đâu ra cái đẹp”. Xuất phát từ một con người có tài năng tổng hợp, nên Lý Thúc Đồng thực sự thuyết phục được các học trò, tạo nên tầm ảnh hưởng và có đóng góp lớn cho nền nghệ thuật Trung Quốc.

Giống như nhiều trí thức đầu thế kỷ XX đem hoài bão sở học của mình nơi xứ người về làm giàu cho văn hóa đất nước. Bấy giờ, nước Nhật là hình mẫu của phương Đông về phương diện tiếp biến văn hóa, kết hợp giữa Đông – Tây. Như chúng ta biết, Lỗ Tấn, một nhà văn nổi tiếng đầu thế kỷ XX cũng từng tu nghiệp tại Nhật Bản. Lý Thúc Đồng cũng vậy. Từ một kỳ tài, nổi tiếng trong giới nghệ thuật Trung Quốc, đầu năm 1918, đêm trước phong trào cách mạng “Ngũ tứ”, Lý Thúc Đồng bỗng xuống tóc đi tu. Sự kiện này, gây chấn động trong giới nghệ thuật. Tin tức Lý Thúc Đồng đi tu lan truyền khắp cả nước, nhiều người tỏ ra bàng hoàng, nhiều người không tin một “Bạch Công Tử” phong lưu, tài ba lỗi lạc lại có thể xuất gia đi tu! Trong số đó, không hiếm người hoài nghi quyết tâm ở lại tự viện của họ Lý.

Theo Phong Tử Khải, một học trò của Lý Thúc Đồng kể lại, cái chết của mẹ Lý Thúc Đồng thời trẻ đã khiến ông lâm vào tình trạng u uất triền miên. Sau khi từ Nhật Bản về nước, Lý Thúc Đồng thường xuyên lui tới Hàng Châu. Thắng cảnh u tịch, trầm mặc ven hồ Tây cùng với không khí ảm đạm, tiếng chuông chùa văng vẳng gần xa đã sớm hối thúc Lý Thúc Đồng chuyển bước ngoặt lớn trong cuộc đời. Theo lời khuyên của Hạ Cái Tôn, một người bạn thân, đồng thời cũng là đồng nghiệp ở Đại học Sư phạm, Lý Thúc Đồng thử vào chùa áp dụng phương pháp “đoạn thực”, nhằm chữa trị bệnh phổi và suy nhược thần kinh mắc phải thời trai trẻ. Cả hai căn bệnh này đã giày vò Lý Thúc Đồng suốt thời gian dài. Nghe lời bạn, Lý Thúc Đồng tới xin tá túc ở chùa Hổ Bào, núi Đại Từ, phía Tây Nam thành phố Hàng Châu. Khi Hạ Cái Tôn tới thăm bạn, thấy bộ dạng Lý Thúc Đồng trong chiếc áo màu xanh, mái tóc dài thì không khỏi phì cười, nói: “Trông cậu nửa tăng nửa tục kỳ lắm”. Những lời lẽ mang tính kích bác đó tưởng giúp bạn hoàn tục, trở về đường cũ, không ngờ lại là cú hích khiến Lý Thúc Đồng quyết tâm, kiên định con đường xuất gia vĩnh viễn. Năm 1918, Lý Thúc Đồng chính thức làm lễ xuống tóc, từ đó về sau ông không cầm bút vẽ tranh nữa.

Lý Thúc Đồng được ban pháp danh Diễn Âm, hiệu Hoằng Nhất. Ngài phát nguyện tinh nghiên giới luật, áp dụng phương pháp tu trì nghiêm khắc gần như một vị tăng khổ hạnh. Ban đầu Hoằng Nhất tu pháp môn Tịnh Thổ, sau chuyển hẳn sang Luật tông, một pháp môn nổi tiếng về sự hà khắc. Như chúng ta biết, Luật tông xếp vào một trong những tông phái khó tu, nhất cử nhất động đều phải tuân theo giới luật nghiêm ngặt. Luật tông có ba giới quan trọng: Thứ nhất, đoạn thực sau giờ ngọ; thứ hai cả đời chỉ dùng một bộ cà sa; thứ ba là đoạn tuyệt với thế gian bên ngoài. Sau hơn 20 năm tu tập trong rừng Luật tông hà khắc, Hoằng Nhất đã khôi phục lại Luật tông đứt gãy hàng mấy trăm năm trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc và được Phật môn coi như vị Tông sư thứ 11, góp công chấn hưng Luật tông Nam Sơn.

Vốn mang trong mình tài năng của một nghệ sĩ lớn, Hoằng Nhất sử dụng điêu luyện nghệ thuật ngôn từ (văn học) trong việc giảng giải kinh pháp. Tác phẩm “Nam Sơn luật tại gia bị lãm” của ông, chủ yếu đề cập các biện pháp tu tập dành cho giới tu sĩ. Xét về nghệ thuật, sau khi xuất gia, Hoằng Nhất chỉ bảo lưu nghệ thuật thư pháp. So với nhiều danh tăng cùng thời, sự nổi tiếng của Hoằng Nhất không chỉ tập trung vào những đóng góp cho giới Phật giáo Trung Quốc, mà điều gây chú ý mạnh mẽ hơn cả chính là trước khi trở thành danh tăng, Hoằng Nhất chính là Lý Thúc Đồng, một tài tử phong lưu xuất thân thế gia vọng tộc nổi tiếng khắp hai miền Nam Bắc.

 

Chùa Khai Nguyên, nơi Hoằng Nhất Đại sư viên tịch

 

Ngày 13 tháng 10 năm 1942, Đại sư Hoằng Nhất – Lý Thúc Đồng viên tịch tại chùa Khai Nguyên, Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc, niên chung 63 tuổi. Tác phẩm quý giá được tìm thấy cuối đời của Đại sư Hoằng Nhất – Lý Thúc Đồng là bức thư pháp viết bốn chữ: “Bi hân giao tập” (Buồn vui gặp nhau). Phải chăng, Hoằng Nhất đã tìm ra nơi buồn vui gặp nhau. Đó chính là con đường giải thoát, một dòng hợp lưu giữa niềm vui và nỗi buồn nhẹ trôi bồng bềnh trên sóng biển cuộc đời.

Cảm nghĩ của bạn?
0Tuyệt vời0Tệ0Vui vẻ0Buồn
Chùa Phật học Xá Lợi

Chịu trách nhiệm xuất bản: Hòa Thượng Thích Đồng Bổn

Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. HCM

Thời gian mở cửa

Thứ Hai - Chủ nhật
Sáng: 8:00 - 11:00
Chiều: 14:00 - 19:00

Theo dõi chúng tôi