NGƯỜI MẸ TRONG PHẬT GIÁO
DƯỚI GÓC NHÌN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
DƯƠNG KINH THÀNH
Không đợi đến mỗi mùa Vu Lan Tháng Bảy hằng năm, mọi người mới nói nhiều đến hai tiếng mẹ cha. Từ trong tiềm thức và nếp sống thường ngày, ai cũng đều nhận biết vai trò người mẹ vô cùng quan trọng. Khi văn hóa Phật giáo đi vào và phổ cập trong cộng đồng, thì hình ảnh người mẹ càng thêm được tô đậm thêm, to lớn hơn, theo từng nhận thức hay hiểu biết của từng giới.
Người xưa vốn cũng đã tôn vinh sự hiếu nghĩa qua câu nói: “Thiên kinh vạn điền Hiếu Nghĩa vi tiên”. Trong Nho giáo, lòng hiếu kính cũng luôn được đề cao trong các lập luận và tư tưởng để phát triển. Nhưng quan niệm về hiếu nghĩa của Nho gia, mỗi trường phái cũng đều có những khác biệt đáng kể, có khi sự diễn giải theo đó mà phát tán những sự khác biệt thêm hố sâu ngăn cách, có khi gần với sự cực đoan quá đáng. Những bạn nào từng đọc qua tiểu thuyết “Thoát Vòng Tục Lụy” của tác giả Tinh Vân, hẳn luôn có ấn tượng về điều này trong cuộc đối đáp giữa Quốc Sư Ngọc Lâm và viên quan ở địa phận tỉnh Hồ Bắc. Từ chi tiết khác biệt về cách báo hiếu, nhưng qua diễn đạt và sự hiều biết của người cực đoan sẽ biến thành hai trạng thái đối nghịch nhau khá trầm trọng. Đó mới chính là một “sự khác biệt” trong trạng thái khác biệt mà trong rất nhiều người hiện còn giữ trong tâm tưởng! Còn lại và lên trên tất cả các khái niệm, chủ thuyết, lòng hiếu đạo, hình ảnh mẹ cha luôn là điều tựa của nguồn cội. Ở Việt Nam chúng ta, điều đó luôn được tôn trọng một cách triệt để. Sẽ không thừa khi nhân đây xin trích lại câu thơ rất hay của tác giả Huyền Lan, có đoạn:
“Từ trong tiềm thức thiêng liêng
Tim con réo gọi ân tình Tổ Tiên
Chắp tay lễ Mục Kiền Liên
Tấm gương hiếu tử đẹp miền Đông phương”.
Với Phật giáo, từ chính trong tư tưởng giải thoát và nghiệp quả đã dựng lên hình ảnh người mẹ thật tuyệt vời để trước nhất con người còn sống trong cõi nhân gian dựa vào đó làm nấc thang tìm cầu giải thoát cho mình. Ngay trong bước đầu học Phật, chúng ta ai cũng phải chạm đến bốn cửa ngỏ Tứ Đại Trọng Ân, cần phải thực nghiệm và bước qua một cách thong dong. Trong bốn trọng ân này, có thể khi thốt ra thứ tự có phần khác nhau nhưng thứ tự thứ nhất vẫn là Ân Cha Mẹ (Ân Cha Mẹ, Ân Tam Bảo, Ân Quốc Gia và Ân Đàn Na Tín Thí). Cũng từ kinh Tâm Địa Quán, câu Phật ngôn đã trở thành một tuyên cáo mạnh mẽ “Gặp thời không có Phật, Thờ Cha Mẹ tức thờ Phật vậy”, là tiền đề cho nhiều tư tưởng hiếu kính phát triển dưới nhiều góc độ.
Trong nhiều điển tích Phật giáo, kinh Phật hay các lời dạy của chư tổ dành riêng cho những người vì quá cuồng si hình tượng nào đó, kể cả Phật hay Bồ tát mà bỏ quên người mẹ hiện tại bên mình; hoặc trường hợp người con bất hiếu… thì hình ảnh “Mẹ là Phật”, “Mẹ là Phật sống thế gian”… xuất hiện. Hơn ai hết, chúng ta đều thấy rằng ngôi nhà Phật pháp hay trong một bối cảnh xã hội trong lành, người ta đâu cần có những người con bất hiếu. Như vậy, cho thấy những sự xuất hiện này đều có chủ đích và có đối tượng chứ không cho tất cả.
Câu chuyện “Mục Liên – Thanh Đề”, thực chất vốn là một câu chuyện được lắp ghép từ trong nhiều tiền kiếp khác nhau của Thanh Đề và Mục Liên, được các nhà hoằng pháp diễn giải. Trải qua nhiều thời gian khác nhau, và kết nối chưa thật sự khéo léo nên mới có nhiều hiểu lầm từ phía người đọc hoặc nghe qua. Điều đáng quan tâm hơn nữa là khi đó, những ai tiếp cận được quyển kinh “Mục Liên Sám Pháp” nữa thì màu sắc lung linh, xa vời càng hiện lộ rõ. Chính từ đó, góp thêm câu thêm Mục Liên – Thanh Đề bằng một đường dây xuyên suốt tưởng chỉ xảy ra trong một giai đoạn hay khoảnh khắc nào đó. Trong đó, có rất ít người biết hay thông hiểu Phật pháp để biết phân biệt và nhận định.
Khi đức Phật nói về người mẹ và lòng hiếu thảo là nói rất thật lòng và hữu ích cho thế gian theo từng duyên nghiệp, trong đó có quá trình từ trong vô lượng tiền kiếp của mình. Không riêng gì về lòng hiếu thảo và hình ảnh cha mẹ sinh thành của chúng ta, tất cả các giáo pháp Phật đưa ra đều có nguyên do, lý do và phương pháp thực thi; chứ không mang tính chất đơm hoa kết trái, hay nhuận sắc rực rỡ cho được tiếng đời, hoặc áp đặt thành một điều luật, khống chế mọi người phài tuân theo mà không rõ vì sao phải làm như vậy. Như đã thưa, chính cuộc đời đức Thế Tôn cũng đã cho thấy vì lòng hiếu thảo với mẹ cha mà phải trải qua nhiều tiền kiếp gian truân. Với nhiều duyên nghiệp khác nhau, đức Phật cũng phải dốc lòng chu toàn cho tất cả để có ngày viên mãn, thành tựu và có cả một nền tảng giáo lý chuyên chở đạo nghĩa Tứ Ân tuyệt vời cho muôn loài nương tựa tu tập.
Mục Liên – Thanh Đề
Hình ảnh hàng triệu triệu Tăng-Ni dành trọn cả cuộc đời mình xuất gia cầu đạo và ra sức gìn giữ giềng mối đạo mầu; hàng nghìn ngôi chùa hiện diện khắp nơi làm nơi an trú và phát triển nền đạo giải thoát. Những hình ảnh cao đẹp đó đã đôi lần bị xô đẩy đến méo mó để đề cao và so sánh những điều sai trái vừa nhen nhóm ra đời. Nhìn qua, ai cũng dễ dàng nhận thấy tất cả đều do chưa hiểu duyên biết nghiệp mà ra. Qua đó, khiến chúng ta nhớ lại trong dân gian từng có câu: Tu đâu cho bằng tu nhà/Thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”, phù hợp với lời dạy của đức Phật được ghi trong kinh Đại Tập: “Hiếu với Mẹ Cha tức là kính Phật. Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo thờ cha mẹ. Khéo thờ phụng cha mẹ như thờ Phật vậy”.
Trong kinh Tăng Chi Bộ, Phật cũng dạy: “Này các Tỳ kheo! Những gia đình nào có con cái kính dưỡng cha mẹ, thì những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm thiên, được chấp nhận như ngang bằng với bậc Đạo sư, đúng được kính trọng và cúng dường”.
Tóm lại, với đạo Phật, hiếu kính cha mẹ được xem là một trong những việc làm quan trọng nhất. Đức Phật còn dạy, việc báo hiếu cha mẹ không chỉ dừng lại ở việc phụng dưỡng vật chất, mà còn cả việc hướng dẫn cha mẹ trên con đường tu tập: “Nếu cha mẹ xan tham, phải khuyến khích cha mẹ phát tâm bố thí. Nếu cha mẹ theo điều ác, phải khuyến khích cha mẹ hướng về điều thiện. Nếu cha mẹ theo tà kiến, phải khuyến khích cha mẹ trở về với chánh kiến”(Kinh Tăng Nhất A Hàm).