CHỮ NHO – CHỮ TA – CHỮ VIỆT NAM
NGUYỄN HẢI HOÀNH
Năm 1918, trong bài “Chữ Nho với văn quốc ngữ” đăng trên tạp chí Nam Phong, học giả Phạm Quỳnh viết: “Thử về chốn nhà quê mà đưa cho ông già hay đứa trẻ con tờ giấy chữ Nho hỏi là chữ gì, tất ai cũng đáp là ‘chữ Việt Nam’. Mười năm, hai mươi năm về trước có ai nghĩ cái chữ mình học là chữ của người ngoại quốc đâu?”. Đúng thế thật. Ngày xưa ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, hầu như làng xã nào cũng có các lớp dạy chữ Nho; gia đình nào có chút máu mặt đều cho con trai đi học chữ ta ở nhà các thầy đồ Nho trong làng hoặc trên phố. Ví dụ bà nội tôi trồng lúa nuôi ông nội đi học chữ Nho ở lớp học của Phó bảng Dương Danh Lập người Bắc Ninh, nguyên Đốc học Hà Nội đã nghỉ hưu. Về sau, ông tôi đỗ cử nhân khóa thi năm Bính Ngọ (1906). Khi về già, ông dạy các cháu lớn học chữ Nho, cháu nhỏ học chữ Quốc ngữ.
Ảnh minh họa
Chữ Hán chính thức vào Việt Nam sau khi phong kiến Trung Quốc thôn tính rồi cai trị nước ta trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Thông thường, kẻ đi xâm lược đều muốn đồng hóa kẻ bị xâm lược, trước hết là đồng hóa về ngôn ngữ. Trong thời Bắc thuộc, nhằm Hán hóa tiếng Việt, nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục mở lớp dạy người Việt học chữ Hán – việc này có ghi trong sách “Việt giám thông khảo tổng luận” và “Đại Việt sử ký toàn thư”. Thái thú Sĩ Nhiếp do mở rộng việc dạy chữ Hán được dân ta kính trọng gọi là “Sĩ vương”; điều đó chứng tỏ dân ta tán thành học chữ Hán, hiểu rằng có chữ viết thì nước ta mới thoát khỏi cảnh lạc hậu. Thế nhưng, việc học chữ Hán có nhiều khó khăn. Chữ Hán cấu tạo phức tạp, khó nhớ, khó viết, khó phát âm, nhìn chữ không đọc được âm, lại có quá nhiều chữ. Hơn nữa do người Trung Quốc đều nói phương ngữ (tiếng địa phương) cho nên chữ Hán không có một âm đọc tiêu chuẩn thống nhất cả nước, cùng một chữ Hán có nhiều cách đọc khác nhau, dân ta không biết đọc theo âm nào. Chính người Trung Quốc cũng vì nghe không hiểu phương ngữ nên chủ yếu giao tiếp với nhau bằng bút đàm; chữ viết được coi trọng hơn tiếng nói (cho đến cuối năm 2000 chỉ có 53% người Đại lục biết nói tiếng Phổ thông).
Để vượt qua khó khăn đó, tổ tiên ta nghĩ ra cách đọc chữ Hán bằng tiểng Việt, qua đó xác định âm đọc tiêu chuẩn bằng tiếng Việt cho chữ Hán. Đã quy định mỗi chữ Hán được đọc bằng âm của một từ Hán-Việt. Ví dụ, chữ Hán 家 có âm đọc tiếng Việt là “gia”, ở đây “gia” là âm đọc từ Hán-Việt của 家, mô phỏng âm tiếng Hán “chi-a” của 家. Mỗi chữ Hán ứng với một từ Hán-Việt, ví dụ chữ 家 có từ Hán-Việt là “gia”. Toàn bộ chữ Hán được người Việt đọc bằng từ Hán-Việt, tức bằng tiếng Việt. Với cách đó, tổ tiên ta đã xác định được âm đọc chuẩn tiếng Việt cho chữ Hán (đến thế kỷ XX người Trung Quốc mới làm việc này bằng tiếng Hán).
Chữ Hán đọc bằng tiếng Việt được dân ta gọi là chữ Nho. Từ đó trở đi, người Việt chỉ học chữ Nho, nghĩa là chỉ học chữ mà không học tiếng Hán, vì thế suốt thời Bắc thuộc, dân ta không ai nói tiếng Hán. Kết quả là sau hơn 1.000 năm buộc phải học và dùng chữ Hán/ Nho, tiếng Việt vẫn giữ nguyên như cũ không bị Hán hóa. Như vậy, chữ Hán đọc bằng tiếng Việt đã ngăn chặn chính quyền phong kiến Trung Quốc thực hiện dã tâm đồng hóa dân tộc ta.
Phiên âm chữ Nho và chữ Hán
Chữ Nho được dân ta coi là chữ của nước ta, “chữ ta”, không phải là chữ nước ngoài. Lý do: Nếu là chữ ngoại quốc, thì phải đọc bằng tiếng nước ngoài. Chữ viết đọc bằng tiếng ta, thì rõ ràng là chữ ta rồi! Có ai đọc tiếng Pháp bằng tiếng ta đâu, dù có đọc “bồi” đi nữa thì tiếng Pháp bồi vẫn không phải là tiếng ta. Chữ Nho chỉ khác chữ Hán ở âm đọc, còn lại hoàn toàn như chữ Hán. Chữ Hán/Nho là chữ biểu ý, có thể đọc nó bằng mọi thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Người Trung Quốc nghe đọc chữ Nho thì không hiểu, nhưng nhìn chữ thì hiểu. Họ không biết “chữ Nho” là gì, vì tiếng Trung Quốc không có từ “Nho tự (chữ Nho)”; các từ điển Hán-Hán xuất bản ở Trung Quốc đều không có từ này. Rõ ràng, “chữ Nho” là từ tiếng Việt, do dân ta đặt ra và dùng từ này để chỉ chữ Hán đọc bằng tiếng Việt.
Về thực chất, từ Hán-Việt là từ tiếng Việt phiên âm chữ Hán. Sở dĩ có thể phiên âm chữ Hán thành từ tiếng Việt được, đó là do tiếng Việt cực giàu ngữ âm, có thể phiên âm bất kỳ ngôn ngữ nào. Theo thống kê, lượng âm đọc của tiếng Việt nhiều gấp 15 lần lượng âm đọc của tiếng Hán (19.520 so với 1.300). Đồng thời vì duy nhất chữ Hán là chữ biểu ý (ideograph); tất cả chữ viết còn lại đều là chữ biểu âm (phonograph). Chữ biểu ý không dùng chữ cái để ghi âm, nhìn chữ không đọc được âm, vì thế có thể đọc nó bằng bất cứ thứ tiếng nào. Tổ tiên ta đọc chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ, cụ thể là bằng từ Hán-Việt, tức từ phiên âm chữ Hán. Từ Hán-Việt là từ tiếng Việt có ý nghĩa của chữ Hán mà nó phiên âm (ví dụ “gia” có ý nghĩa như 家, “gia” có trong từ điển tiếng Việt). Chữ biểu âm dùng chữ cái để ghi âm, nhìn chữ đọc được âm, vì thế chỉ có thể đọc nó bằng âm bản ngữ. Ví dụ, từ tiếng Anh “study”, phiên âm tiếng Việt là “stơ-đi”, từ này không phải là từ tiếng Việt, không có trong từ điển tiếng Việt.
Ngày xưa, dân tộc ta chưa làm được chữ viết, vì thế tuy tiếng Việt rất phong phú, nhưng xã hội ta vẫn ở thời tiền sử mông muội lạc hậu, chẳng để lại ghi chép gì. Làm chữ viết ở thời xưa là công trình sáng tạo tiến hành trong hàng trăm hàng nghìn năm. Loài người xuất hiện đã hơn triệu năm, nhưng 5.000 năm gần đây mới có chữ viết. Nhiều dân tộc hiện vẫn chưa có chữ viết. Tiếng Việt quá giàu ngữ âm, vì thế càng khó làm được chữ viết. Trong tình hình đó, tổ tiên ta chủ trương mượn dùng chữ Hán là rất hợp lý. Hơn nữa lại mượn theo cách hiệu quả nhất: Dùng tiếng mẹ đẻ của mình đọc chữ Hán, biến chữ Hán thành chữ Nho, tức chữ ta, khiến cho việc dùng chữ mượn trở nên dễ dàng và không ảnh hưởng xấu tới ngôn ngữ mẹ đẻ, như không vì học chữ Hán mà phải nói tiếng Hán.
Chữ Nho là ký tự ghi được một bộ phận tiếng Việt; ví dụ chữ 家 ghi được từ tiếng Việt “gia”. Nhưng chữ Hán/Nho chỉ ghi được từ Hán-Việt mà không ghi được từ thuần Việt; tuy thế cũng đủ cho tầng lớp trên người Việt có chữ làm các công việc ghi chép, giao tiếp đối nội đối ngoại, xây dựng nền văn học chữ Hán, phát triển văn hóa giáo dục, tiếp nhận nền văn minh Trung Hoa. Sau khi nước ta giành độc lập, vào thế kỷ XI người Việt dựa trên nền tảng chữ Hán/Nho thành công làm ra chữ Nôm ghi được cả từ thuần Việt và từ Hán-Việt, là chữ viết có tính biểu ý kiêm biểu âm. Nhờ đó, xây dựng được nền văn học bình dân với các tác phẩm chữ Nôm trội hơn hẳn văn học chữ Nho.
Chữ Hán và chữ Nôm
Ban đầu, tiếng Việt chỉ có từ thuần Việt, là loại từ cơ bản có từ thời nguyên thủy, số lượng ổn định ít thay đổi. Nhiều nghìn năm sau, xã hội người Việt tiếp xúc với chữ Hán là đại diện của văn hóa Trung Quốc, do sinh ra từ Hán-Việt. Đây là lớp từ văn hóa, phản ánh nền văn hóa Trung Quốc thâm sâu rộng lớn, vì thế tất nhiên từ Hán-Việt có lượng từ vựng rất lớn, được dùng nhiều nhất trong đời sống ngôn ngữ Việt; không có từ Hán-Việt thì ta không thể nói hoặc viết về các vấn đề văn hóa xã hội. Ví dụ 90% từ trong Hiến pháp Việt Nam 2013 là từ Hán-Việt. GS Cao Xuân Hạo nói từ Hán-Việt chiếm khoảng 70% tổng lượng từ vựng tiếng Việt cuối thế kỷ XX. Thực ra, vì từ Hán-Việt liên tục tăng nên không thể xác định chính xác tỷ lệ đó.
Theo phỏng đoán, hệ thống từ Hán-Việt được tổ tiên ta hoàn thành vào thời điểm không muộn quá một thế kỷ sau khi chữ Hán vào nước ta. Nếu muộn hơn thì người Việt đã đọc chữ Hán bằng tiếng Hán quá lâu (ví dụ quá 100 năm), tiếng Hán sẽ đồng hóa tiếng Việt. Dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Quốc khoảng 100 năm, do chịu ảnh hưởng của Hán ngữ mà tiếng Mãn đã bị Hán hóa đến mức người Mãn không nói tiếng Mãn nữa.
Việc phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt không nhằm cung cấp âm đọc tiếng Hán chính xác của chữ Hán mà chỉ cung cấp âm đọc tiếng Việt quy ước cho chữ Hán. Nhiều từ Hán-Việt có âm đọc khác xa âm Hán của nó; như chữ 乙 âm Hán đọc “yi” mà âm Hán-Việt đọc “ất”. Trong các tự điển Hán-Việt hiện nay, mỗi chữ Hán đều được ghi chú phiên âm Hán ngữ (Hanyu Pinyin), rồi phiên âm tiếng Việt (tức từ Hán-Việt) của chữ Hán đó. Ví dụ, mục từ 合 viết: “合 hé HỢP”; ở đây “hé” là từ phiên âm Hán ngữ, HỢP là từ phiên âm tiếng Việt của 合. Vì chữ Hán có tính biểu ý nên từ phiên âm tiếng Việt của nó là từ tiếng Việt có ý nghĩa, do đó có thể ghép với từ khác làm thành từ mới, tạo khả năng tăng lượng từ ngữ tiếng Việt. Như “hợp” có ý nghĩa của 合, có thể làm thành nhiều từ mới như hợp tác, hợp chất, hợp đồng. Nghĩa là từ Hán-Việt có năng lực làm tăng số lượng từ tiếng Việt. Nhưng từ phiên âm các chữ viết biểu âm, thì không phải là từ tiếng Việt, cho nên không thể làm được như vậy.
Tóm lại, chữ Hán đọc bằng tiếng Việt đã mang lại các lợi ích như sau cho dân tộc ta: 1- Làm ra từ Hán-Việt, là từ phiên âm tiếng Việt của chữ Hán, xác định được âm đọc chuẩn tiếng Việt cho chữ Hán; hình thành nguồn từ ngữ để người Việt nói hoặc viết về các vấn đề văn hóa, xã hội, tạo tiềm năng phát triển từ vựng tiếng Việt. 2- Mượn chữ Hán để xây dựng nền văn minh Việt; tạo nền tảng chữ viết để làm ra chữ Nôm ghi âm được toàn bộ tiếng Việt, tạo dựng nền văn học bình dân. 3- Thực hiện học và dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán, nhờ đó dân tộc ta không bị văn hóa Hán đồng hóa.
Với những cống hiến như vậy, chữ Hán đọc bằng tiếng Việt, tức chữ Nho, xứng đáng là Chữ ta, Chữ của Việt Nam. Nhà cầm quyền phong kiến Trung Quốc thôn tính nước ta, dạy dân ta học chữ Hán với mưu đồ Hán hóa dân tộc này, ai ngờ do tổ tiên ta khôn khéo sử dụng mà rốt cuộc chữ Hán đọc tiếng Việt đã đập tan mưu đồ ấy.